Hy hữu: Viêm ruột thừa dưới gan hiếm gặp
![]() |
Bác sĩ kiểm tra sức khỏe bệnh nhân sau phẫu thuật |
Bệnh nhân Đoàn Thị C. (sinh năm 1962, ngụ tại Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) bị đau bụng dữ dội trước đó khoảng 1 tuần, đi khám tại 2 cơ sở y tế tư nhân tại khu vực Tiền Giang và được chẩn đoán đau quặn thận. Tại đây việc điều trị không rõ ràng và dứt điểm, cơn đau không thuyên giảm mà ngày càng tăng kèm theo sốt cao.
Bệnh nhân C được đưa vào nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa Tư nhân Bình Dương trong tình trạng đau bụng kèm sốt cao, các bác sĩ sau khi thăm khám đã chẩn đoán bệnh nhân bị ruột thừa viêm vỡ mủ và cần được mổ cấp cứu bằng phương pháp phẫu thuật nội soi ổ bụng.
Quá trình phẫu thuật bác sĩ đã ghi nhận vùng hông phải có mủ và giả mạc kèm tổ chức viêm dính nhiều, manh tràng nằm dưới gan. Gốc ruột thừa hoại tử vỡ mủ quặt ngược sau manh tràng dưới thanh mạc, phẫu tích cắt bỏ ruột thừa và dẫn lưu bụng.
Bác sĩ CK1 Phạm Thành Kiên – Khoa Ngoại tổng quát, Bệnh viện Đa khoa Tư nhân Bình Dương - người trực tiếp phẫu thuật, cho hay: “Viêm ruột thừa là bệnh lý phổ biết hàng đầu của cấp cứu bụng ngoại khoa, chiếm tỉ lệ khoảng 6% dân số và tỷ lệ phẫu thuật chiếm khoảng 30%-40% tổng số ca phẫu thuật cấp cứu bụng. Tuy nhiên đây lại là một bệnh lý gây không ít khó khăn cho các bác sĩ trong chẩn đoán và điều trị (kể cả bác sĩ dày dặn kinh nghiệm) vì mức độ đa dạng và phức tạp của nó.
Các vị trí của ruột thừa thông thường sẽ dễ chẩn đoán và xử trí đơn giản, mổ sớm sẽ có kết quả tốt và không để lại di chứng đặc biệt. Tuy nhiên với các vị trí khó chẩn đoán khác như nằm dưới gan, dưới thanh mạc manh tràng, hố chậu trái, tiểu khung, giữa bụng… sẽ dễ nhầm với nhiều loại bệnh khác hoặc bỏ sót mà không xử trí kịp thời có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm”
Cụ thể như trường hợp của bà C., vị trí ruột thừa dưới gan, quặt ngược sau manh tràng và vùi dưới thanh mạc, một bệnh cảnh ruột thừa rất khó chẩn đoán (nhất là giai đoạn muộn) và hiếm gặp. Tỷ lệ ruột thừa vị trí sau trong manh tràng bình thường là 75%, vị trí bất thường 25% bao gồm: tiểu khung, dưới gan, quanh rốn, hố chậu trái, quặt ngược sau manh tràng, đầu ruột thừa tiếp giáp mỏm nhô, trước và sau hồi tràng.v.v... Tỷ lệ dưới thanh mạc và dưới gan thì càng hiếm gặp hơn.