Hợp tác công tư lĩnh vực y tế: Cần có chính sách cụ thể
Ảnh minh họa |
Theo các chuyên gia của Công ty Tài chính quốc tế (IFC) và WB, nhiều nước trên thế giới hiện nay đều đang phải đối mặt với áp lực tài chính công ngày càng tăng đối với các dịch vụ công cộng, đặc biệt là y tế khi chi tiêu cho lĩnh vực này trên toàn cầu đã vượt 4 nghìn tỷ USD (9% GDP toàn cầu). Ngân sách công thường không đủ đáp ứng nhu cầu chăm sóc y tế của người dân, thậm chí tại các nước thu nhập thấp, người dân thường phải trả tới 60% chi phí y tế. Và hình thức PPP có thể huy động nguồn tài chính tư nhân, tăng khả năng tiếp cận và hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ y tế cho người dân.
Còn tại Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Y tế Phạm Lê Tuấn cho biết, nhu cầu chăm sóc y tế của người dân ngày càng cao, tình trạng quá tải của các bệnh viện công, sự phát triển mạnh các phòng khám và bệnh viện tư nhân… là những điều kiện thuận lợi để mô hình PPP trong lĩnh vực y tế phát triển. Đến nay, các hình thức liên doanh, liên kết xã hội hóa trong đầu tư trang thiết bị giữa các BV công lập và tư nhân đã huy động được nguồn vốn trên 3.200 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc thiếu một hệ thống cơ chế, chính sách toàn diện về PPP trong y tế, từ loại hình đầu tư đến thủ tục triển khai phức tạp, cơ chế sử dụng vốn Nhà nước vào các dự án chưa rõ ràng… đã khiến việc các dự án PPP trong lĩnh vực y tế chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân.
Để có một mô hình BV công - tư ổn định, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của nước ngoài. Theo ông Dirk Sommer, Ban Tư vấn PPP (dự án đầu tư công - tư), Tổ chức Tài chính Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, một dự án đầu tư công - tư thành công phải phụ thuộc vào ba yếu tố: Chính trị - kinh tế - thực tế triển khai. Do đó, một số mô hình PPP phù hợp với Việt Nam trong lĩnh vực y tế là: Khu vực tư nhân quản lý cơ sở, Nhà nước điều hành hoạt động khám chữa bệnh hoặc tư nhân được giao quyền quản lý một số dịch vụ lâm sàng chuyên môn hỗ trợ, thẩm tách, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh… Nhà nước sẽ giao đất, bàn giao mặt bằng cơ sở, BV công lập hiện có, bảo đảm linh hoạt tài chính cho chi phí dịch vụ khám chữa bệnh cho BV tư; đồng thời ban hành các chính sách giá cả, ưu tiên cho bệnh nhân có bảo hiểm y tế còn BV tư sẽ có quyền đầu tư, thiết kế cơ sở theo thời hạn đã định, có quyền tuyển dụng, đào tạo cán bộ…
Để triển khai PPP trong lĩnh vực y tế, theo ông Dirk Sommer, Ban tư vấn PPP của WB cho rằng, vai trò lãnh đạo của Nhà nước là yếu tố then chốt. Nhà nước cần hiểu rõ về tác động của PPP; xác định rõ đâu là lĩnh vực muốn tư nhân tham gia, từ đó xây dựng được chiến lược PPP song song với việc thực hiện các dự án PPP đầu tiên nhằm tạo định hướng cho các bên liên quan; lồng ghép PPP vào hệ thống y tế; xác định những mô hình đem lại hiệu quả nhanh, bắt đầu từ những dự án tương đối dễ, tranh thủ sự hỗ trợ; chuẩn bị kỹ lưỡng, có quy trình minh bạch để bảo đảm tính pháp lý cho nhà đầu tư và các bên liên quan…
Hội thảo đã ghi nhận ý kiến của một số nhà đầu tư, các BV tư nhân, cũng như lãnh đạo một số BV công lập cho rằng vấn đề quan trọng nhất là cần phải xác định cho được cơ chế chính sách cụ thể đối với hợp tác công-tư trong lĩnh vực y tế.
Hiện đầu tư cho y tế còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu, nên đa số BV tuyến trung ương có công suất sử dụng giường bệnh lên đến trên 120%. Bệnh nhân từ các BV tuyến cơ sở bị dồn lên tuyến trên hoặc tự vượt tuyến do chất lượng BV tuyến dưới còn yếu kém.