Giá điện tăng sẽ kéo CPI tăng theo 0,6%
Theo lý giải của Bộ Công thương, việc điều chỉnh tăng giá điện xuất phát từ nguyên nhân giá bán lẻ điện hiện tại đang thấp hơn giá vốn của EVN. Năm 2016, EVN ước tính giá vốn là 1.665đ/kWh, cao hơn 2,65% so với giá bán lẻ điện hiện tại. Trong đó, chi phí sản xuất điện là 1.270đ/kWh; Chi phí truyền tải điện là 101đ/kWh; Chi phí phân phối và bán lẻ điện là 287đ/kWh; Chi phí quản lý là 7đ/kWh.
Theo tính toán của HSC, đợt tăng giá điện này sẽ tác động CPI tăng tổng cộng 0,6%, do đó, giá bán điện tăng thực tế sẽ không đủ bù đắp hoàn toàn cho sự gia tăng của chi phí nguyên liệu. Trong đó, CPI tăng 0,2% sẽ là tác động trực tiếp từ tháng 1/2018 khi hóa đơn tiền điện được tính theo giá mới cao hơn và phần còn lại là tác động gián tiếp trong những tháng sau đó.
Theo Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định, việc tăng giá điện thuộc kiểm soát của EVN, Bộ Công thương và Bộ Tài chính. Cụ thể, đối với đề xuất tăng giá điện 3-5%, sẽ chỉ cần được EVN phê duyệt; Đối với đề xuất tăng giá điện 5-10%, cần được cả EVN và Bộ Công thương phê duyệt; Đối với đề xuât tăng giá điện trên 10%, cần được EVN, Bộ Công thương, Bộ tài chính và Thủ tướng phê duyệt.
Do giá bán điện theo hợp đồng PPA là cố định trong khi đó phần doanh thu tăng thêm từ bán điện trên thị trường phát điện cạnh tranh phụ thuộc vào cung/cầu thị trường. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất điện sẽ không được hưởng lợi gì từ việc tăng giá điện lần này.
Cụ thể, giá bán lẻ điện bình quân là giá đầu ra của EVN, trong khi đó giá mua điện từ các công ty điện là giá đầu vào của EVN. Hơn nữa, EVN hiện vẫn độc quyền mua điện từ các công ty điện thông qua hợp đồng PPA và thị trường phát điện cạnh tranh, do đó điều chỉnh tăng giá đầu ra của EVN thực tế không tác động trực tiếp đến giá đầu vào của EVN.
![]() |
Kỳ hạn bình quân của một hợp đồng PPA cho một công ty phát điện độc lập đã niêm yết (hợp đồng bán điện giữa EVN và các nhà máy điện) là từ 10 - 20 năm. Thông thường, kỳ hạn hợp đồng sẽ theo sát vòng đời kinh tế của các thiết bị sản xuất điện tại các nhà máy. Do đó, hợp đồng sẽ không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong giá bán lẻ điện.
Dù trên thị trường phát điện cạnh tranh, EVN cũng phân bổ sản lượng điện mua từ các nhà máy dựa trên giá đấu thầu theo chi phí thay đổi. Các nhà máy điện thường bán 10-20% sản lượng điện trên thị trường phát điện cạnh tranh. Và việc lựa chọn mua điện trên thị trường phát điện cạnh tranh của EVN cũng không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong giá bán lẻ điện.
Tuy nhiên, khi các hợp đồng PPA đáo hạn và được đàm phán, giá bán lẻ điện tăng cho phép EVN linh hoạt và hào phóng hơn khi đàm phán giá hợp đồng PPA với các nhà máy điện mới. Trong số các công ty phát điện độc lập đã niêm yết hiện tại, kỳ hạn các hợp đồng PPA như sau:
Nhiệt điện Phả Lại – đến năm 2019 đối với nhà máy Phả Lại 1 và đến năm 2031 đối với nhà máy Phả Lại 2; Nhiệt điện NHơn Trạch – đến năm 2021. Với PV Power, thời gian đáo hạn cụ thể như sau: Nhơn Trạch 1 – đến năm 2018, Cà Mau 1&2 – đến năm 2028, Vũng Áng – đến năm 2025, Nậm Cát – đến năm 2022, Hủa Na – đến năm 2023, Đăk Đrinh – đến năm 2024.