Đề Văn thi HSG Quốc gia THPT 2020: “Đề hay, thử thách còn nằm ngoài văn chương”
Hôm nay (25/12), các thí sinh tham dự Kỳ thi Học sinh giỏi Quốc gia môn Văn đã hoàn thành xong phần thi của mình với thời gian làm bài 180 phút.
Đề Văn thi HSG Quốc gia THPT năm 2020 |
Nhận định về đề thi này cô Trịnh Thu Tuyết – Giáo viên Hệ thống Giáo dục HOCMAI cho hay, nhìn tổng thể, đề thi học sinh giỏi Quốc gia năm học 2020 – 2021 có một “tứ” hay:
Câu 1 về nghị luận xã hội khẳng định vai trò sâu xa, cội nguồn, gốc rễ của các giá trị (đặc biệt là giá trị văn hóa, tinh thần) thuộc về dân tộc; câu nghị luận văn học đặt ra vấn đề về giá trị phổ quát lớn lao mang tầm nhân loại của văn chương cũng là một giá trị thuộc bình diện văn hóa, tinh thần.
Hình dung tâm trí học trò khi làm bài, các em có thể nghĩ tới một cây lớn, bám chắc vào đất mẹ và vươn cành, xòe tán, hứng gió và mang gió tới muôn phương! Và thực chất, câu nghị luận xã hội sẽ là một trong số rất nhiều yếu tố quan trọng giúp đạt được những giá trị mà câu nghị luận văn học đặt ra – bởi như chính Nguyễn Minh Châu đã nói: “Hãy đi đến tận cùng của cái ta, ta sẽ gặp được nhân loại!”.
Câu nghị luận xã hội yêu cầu học sinh suy ngẫm và bàn luận về ý kiến của Xuân Diệu: “Không đứng vào dân tộc, như cây không đứng vào đất, làm gì có sức chắc chắn để phát triển cho đến tận cùng”.
Đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như ngày nay, đây là vấn đề thiết thực, cần thiết với nhận thức và nhân cách cá nhân, đặc biệt quan trọng với sự phát triển của mỗi con người cũng như toàn thể xã hội.
Khi khái niệm “dân tộc” gắn liền với những giá trị truyền thống tốt đẹp thì vấn đề đặt ra trong đề bài càng thiết thực, nhất là trong thời kì hội nhập, xu hướng sùng ngoại ở các giá trị vật chất hay tinh thần đang có khuynh hướng cực đoan, thái quá, làm băng hoại các giá trị nền tảng của dân tộc.
Đề bài hoàn toàn có thể giúp học trò mở ra những suy ngẫm tích cực và mới mẻ về điểm giao cắt, thậm chí tương đồng của các giá trị, từ dân tộc, truyền thống tới quốc tế, hiện đại và tìm ra hướng đi cho mình.
Cô Tuyết cho rằng: “Từ rất lâu, khi đề cập tới những khái niệm “dân tộc” hay “quốc tế”, sự khác nhau giữa các dân tộc là bản sắc văn hóa, nhưng có người bạn lại khẳng định: điểm khác nhau giữa các dân tộc là đẳng cấp (level), ví dụ chúng ta thường tự hào về tình yêu quê hương đất nước, lòng nhân ái “thương người như thể thương thân”, cách sống thủy chung tình nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”…, nhưng làm gì có dân tộc nào trên thế giới không có những tình cảm ấy, chỉ khác về mức độ nhận thức, về trình độ văn minh trong các hình thức biểu hiện. Tôi thấy đây là ý kiến đúng, nhưng bổ sung thêm một điều: các dân tộc đều có những phẩm chất, những tình cảm… mang nhân tính như nhau, khác nhau là những đối tượng cụ thể.
Ví dụ: tôi yêu quý, trân trọng một trong những giá trị văn hóa phi vật thể của đất nước tôi, đó là tiếng Việt – “tiếng Việt” là cụ thể một đối tượng trong lòng yêu nước của tôi/ cũng như vậy, một người nước ngoài sẽ yêu ngôn ngữ, tiếng nói của họ, như một cách thể hiện lòng yêu nước – vậy lòng yêu nước là điểm chung của mọi con người sống trên thế giới này, còn yêu những giá trị nào của đất nước mình thì là cái riêng, cái cụ thể của đối tượng”.
Nhận thức được điều này, học trò sẽ không cực đoan trong những quan niệm sống hiện đại, không sai lầm khi đối lập, loại trừ các giá trị, hiểu được Thần Ăng tê chỉ có được sức mạnh vô địch khi đặt chân vững chắc trên mình đất Mẹ Gaia, cũng như đất Mẹ, những giá trị cốt lõi của dân tộc là điểm tựa, là nguồn nuôi dưỡng, là sự tiếp sức vô tận giúp cho con người phát triển; mặt khác, thế hệ cha anh cũng không cực đoan khi cố níu giữ những cái không còn là giá trị chỉ vì nghĩ nó là dân tộc – bởi như đã nói: sự khác nhau là đẳng cấp, những giá trị chung, phổ quát nhưng khi thoát thai từ thuở hỗn mang mông muội, chúng ta phải thay đổi để phát triển theo hướng văn minh, thay vì bảo thủ, trì níu!
Điều cô Tuyết hơi gợn trong câu nghị luận xã hội chính là cách diễn đạt khá “nghệ sĩ” của Xuân Diệu ở cụm từ: “… đứng vào dân tộc” – đây cũng là chi tiết chúng ta nên quan tâm khi chọn ngữ liệu bàn luận, ví như trong một đề thi tuyển sinh lớp 10 chuyên văn gần đây, đề đưa ra quan niệm khá cực đoan, siêu hình khi dùng hai khái niệm “nhan sắc” và “đức hạnh” để phân loại hai yếu tố không thể phân loại trong thơ là hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng!
Câu 2 nghị luận văn học đề cập tới một vấn đề không mới, không khó của lý luận văn học là “tính nhân loại” của văn học. Hai quan niệm của Nam Cao và Nguyễn Minh Châu đều khá thống nhất, dẫu một người lập ngôn “đanh thép”, người kia “khát khao, trăn trở”!
Hầu như mọi nhà văn, khi đặt bút viết, đều nghĩ tới đang bắt đầu cho một “tác phẩm để đời”…, và niềm khao khát hướng tới một tác phẩm “vượt lên tất cả mọi bờ cõi và giới hạn”, một tác phẩm trở thành “văn học của cả thiên hạ, của cả loài người” là khát khao của Vũ Như Tô, của Hộ, của mọi nghệ sĩ trên đời.
Vậy vấn đề đặt ra trong đề bài là hay, là muôn đời, nhưng học trò cần xử lý vấn đề như thế nào cho khỏi rơi vào sự nhàm chán muôn đời, triển khai hệ thống ý như thế nào để vượt thoát khỏi khuôn mẫu lý thuyết, đưa bài văn của các em chạm vào được thực tế “cây đời” của văn chương bây giờ, lúc này, đó sẽ là những khó khăn không hề nhỏ.
Bởi kể cả người lớn, khi cố gắng phân loại minh bạch các khái niệm về tính dân tộc, tính nhân loại, thậm chí tính giai cấp… cũng có thể còn e ngại “động chạm”! Số phận những tác phẩm đề cập tới những chủ đề mang nhân tính, hay nhân loại tính như tình yêu, nỗi đau, sự cô đơn, cái chết, những ảo giác, những khát khao… (Màu tím hoa sim – Hữu Loan, Tây Tiến – Quang Dũng, Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh…) có thể là minh chứng cho sự nhận thức hạn chế về tính nhân loại của văn học. “Văn học minh họa” một thời chưa xa (từ dùng của Nguyễn Minh Châu) sẽ rất khó có đất cho những giá trị muôn đời của nhân loại!
Thêm nữa, một tác phẩm “của cả thiên hạ, của cả loài người” không chỉ đề cập tới những chủ đề muôn thuở của loài người mà còn cần đạt tới một giá trị lớn lao, đích thực, về nội dung – đặt ra được vấn đề cho loài người, cho thiên hạ, vì văn chương không phải chỉ kể hay hát… cho người ta vui, buồn, mà còn phải khơi thức, bắt người ta suy nghĩ, tìm kiếm, đối chứng, phản biện…; về nghệ thuật – phải đạt tới ngưỡng của Cái đẹp…
Hai yêu cầu đó cần tầm vóc, và cũng lại là đẳng cấp của chính cộng đồng và cá nhân trong cộng đồng đó. Đây là vấn đề đã đề cập tới trong câu nghị luận xã hội ở trên!
Tản mạn chút về chính nhà văn Hộ của Nam Cao, một nhân vật được khắc họa từ khát vọng văn chương, lương tri nghề nghiệp tới lương tri con người, nhưng không rõ vì sao Nam Cao không một lần nhắc tới tài năng của Hộ (đây là điều Nguyễn Tuân đặc biệt khiến người đọc ấn tượng trong các nhân vật của ông, ví như Huấn Cao!).
Và liệu có ai nghĩ tới một điều: một nhà văn quanh quẩn với gánh nặng áo cơm như Hộ, những ông giáo San, giáo Thứ, chỉ quanh quẩn nghĩ cách xới thêm một bát cơm đầy để trả thù người đàn bà tham lam bần tiện như Oanh, liệu họ có nghĩ được điều gì lớn hơn bát cơm của họ?
Tất nhiên, cơm áo không còn là vấn đề với thời hiện đại, nhưng tiếc thay, cơm áo lại không phải vấn đề duy nhất chúng ta phải bận tâm trong thời hiện đại – và có những vấn đề có khả năng khiến văn chương khó vượt thoát được “những bờ cõi và giới hạn” để vươn tới tầm nhân loại.
“Tôi cho rằng đề văn năm nay, rằng hay thì thật là hay, nhưng xem ra vẫn là thử thách với không ít học trò, và oái oăm là những thử thách có thể nằm ngoài văn chương”, cô Tuyết nói
Kỳ thi diễn ra đồng loạt trên toàn quốc trong 3 ngày, từ ngày 25/12 đến hết 27/12.
Trong đó, môn Sinh học có nhiều thí sinh dự thi nhất với 501 em.
Môn Toán có 475 thí sinh, môn Vật lý có 472 thí sinh, môn Hóa học có 491 thí sinh, môn Tin học có 444 thí sinh.
Môn Ngữ văn có 489 thí sinh, môn Lịch sử có 464 thí sinh, môn Địa lý có 460 thí sinh. Với các môn ngoại ngữ, môn Tiếng Anh 486 em, Tiếng Nga 61 em, Tiếng Pháp 156 em và Tiếng Trung là 66 em.
Hoàng Thanh