Đắk Nông hướng tới phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao
Với điều kiện sẵn có về tự nhiên, Đắk Nông hiện đang nắm giữ những lợi thế rất lớn để phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao. Theo số liệu, tỉnh có 592.997ha đất nông nghiệp, chiếm 91,01% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó đất trồng cây lâu năm là 19.997ha chiếm 30,7% tổng diện tích. Đất trồng cây hàng năm chủ yếu là đất trồng lúa, ngô và cây công nghiệp ngắn ngày; ngoài ra, diện tích đất nương rẫy còn khá lớn.
Khí hậu của tỉnh vừa mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng với hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ trung bình tại đây dao động trong khoảng từ 22-23 độ C, nhiệt độ cao nhất 35 độ C, tháng nóng nhất là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất 14 độ C, tháng lạnh nhất vào tháng 12. Tổng số giờ nắng trong năm trung bình 2.000-2.300 giờ.
![]() |
Đắk Nông đang dần chủ động trong chuyển hướng chăn nuôi theo quy mô trang trại sạch. |
Tỉnh có lượng mưa trung bình năm từ 2.200-2.400 mm, lượng mưa cao nhất 3.000 mm. Tháng mưa nhiều nhất vào tháng 8, 9; mưa ít nhất vào tháng 1, 2. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Độ bốc hơi mùa khô 14,6-15,7 mm/ngày, mùa mưa 1,5-1,7 mm/ngày. Không những vậy tại đây còn có mạng lưới sông suối phân bố tương đối đều khắp. Đây là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các loại cây trồng nhiệt đới.
Trên thực tế, thời gian qua ngành nông nghiệp của tỉnh luôn có những bước phát triển ấn tượng, mức tăng trưởng của ngành đạt trung bình 7% trong suốt 10 năm (2005-2016), giá trị sản xuất và giá trị gia tăng cũng liên tục được nâng cao. Dù ngành nông nghiệp của tỉnh phát triển chưa toàn diện, năng suất chưa cao như kỳ vọng, dư địa phát triển còn lớn… nhưng không thể phủ nhận những thành quả mang lại đã giúp đời sống nông dân ngày càng phát triển. Cũng chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải xây dựng được nền nông nghiệp công nghệ cao, hướng đến sản xuất bền vững để thu nhập của người nông dân ngày càng cao hơn nữa.
Ý thức được những lợi thế trên và đòi hỏi từ thực tế, từ nhiều năm qua tỉnh đã định hướng phát triển các ngành nông nghiệp theo hướng bền vững. Mới đây tỉnh đã đưa ra dự thảo Quy hoạch Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 để các cá nhân, tổ chức góp ý. Theo dự thảo đề án, đến năm 2030 toàn tỉnh có 19 vùng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, tổng diện tích quy hoạch là 9.510ha, đến năm 2035 toàn tỉnh có 36 vùng với diện tích quy hoạch 11.010 ha. Tổng số vốn thực hiện dự kiến hơn 2.600 tỷ đồng. Trong đó thị xã Gia Nghĩa sẽ tập trung vào các loại cây như cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả; Đắk Glong là cà phê, hồ tiêu, bò thịt, bò sinh sản, cá nước ngọt; Đắk Mil là cà phê, cây ăn quả, giống thủy sản; Krông Nô là cà phê, ngô, bò thịt, bò sinh sản, cá nước ngọt, lúa; Đắk Song là cà phê, hồ tiêu, rau củ quả; Đắk R’lấp là phê, hồ tiêu, gia cầm, heo; Tuy Đức là cà phê, hồ tiêu, bò thịt, bò sinh sản, rau củ quả.
Về tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đề án nhấn mạnh vấn đề liên kết theo chuỗi giá trị từ những đầu mối như doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã... Công nghệ ứng dụng trên quy mô công nghiệp trong quy hoạch nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, gia tăng giá trị của sản phẩm và tăng năng suất lao động. Đề án cũng đưa ra các giải pháp về quy hoạch chi tiết, cơ chế chính sách, thông tin tuyên truyền, đào tạo nguồn lực, chuyển giao khoa học kỹ thuật nhằm đạt hiệu quả mong muốn.
![]() |
Mô hình trồng ổi “siêu sạch” tại xã Quảng Khê, huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông do quy trình chăm sóc luôn được tiến hành một cách chặt chẽ, tỉ mỉ theo sự phát triển của trái. |
Dù đề án đang được lấy ý kiến nhưng trên thực tế thời gian qua tỉnh đã triển khai mô hình này ở nhiều địa phương. Theo số liệu thống kê, tính đến giữa năm 2017, toàn tỉnh đã có 2.383 mô hình về trồng trọt, chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao, trong đó 1.557 mô hình thuộc các công ty, doanh nghiệp, hợp tác, tổ hợp tác xã, còn lại là của các hộ dân. Riêng trong sản xuất cà phê, các mô hình về sản xuất cà phê theo các tiêu chuẩn quốc tế hiện đã đạt hơn 29.000 ha. Hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất này cao hơn so với sản xuất đại trà từ 8,5 triệu đến 12 triệu đồng mỗi hecta. Đối với cây hồ tiêu hay các loại cây ăn quả như sầu riêng, măng cụt, ổi, bơ… cũng đã có nhiều mô hình về phát triển bền vững nhờ quản lý dịch hại tổng hợp, tưới nước tiết kiệm, sử dụng phân bón cân đối...
Riêng tại phường Nghĩa Đức (Gia Nghĩa) hiện đã có 6 hộ dân trồng rau trong nhà lồng, nhà kính với diện tích khoảng 1.000m2 - 2.000m2 mỗi hộ. Tại phường còn có hai hộ chăn nuôi heo theo hướng an toàn sinh học và khép kín với số lượng hơn 1.000 con/năm. Ngoài ra trên địa bàn phường hiện có 750ha cà phê, nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất mà năng suất đã tăng lên, bình quân tăng từ 2,5 tấn/ha lên 3,2 tấn/ha.
Không những được chính quyền hỗ trợ về vốn, kỹ thuật những mô hình này còn cho thấy lợi thế lớn về năng suất và giá trị sản phẩm, từ đó mang lại hiệu quả cao hơn nhiều trên cùng một diện tích đất canh tác. Dù còn nhiều thách thức nhưng mô hình này chắc chắn là hướng đi bền vững giúp người nông dân của tỉnh tăng lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thị trường xuất khẩu rau, củ, quả và các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam ngày càng mở rộng ra nhiều nước trên thế giới.