Chờ Tết để... gói bánh chưng, cùng nhau đón Giao thừa chào năm mới
Nói đến bánh chưng là nói đến một nét văn hóa không thể thiếu trong ẩm thực Tết cổ truyền Việt Nam.
Chiếc bánh chưng là biểu tượng cho sự xum họp, đoàn tụ của gia đình. Lẫn trong câu chuyện của ông nội kể về các vua Hùng, bánh chưng còn là tượng trưng cho đất, thể hiện sự biết ơn gửi tới tổ tiên, các vị thần với ước mong mùa màng bội thu.
![]() |
Cứ dịp Tết đến, các thành viên trong gia đình lại quây quần cùng nhau gói bánh chưng. |
Như mọi năm, bắt đầu từ ngày 20 Tết, ông nội lại ngồi cần mẫn, tỉ mỉ rửa chuốt từng chiếc lá dong. Bánh chưng nhìn mộc mạc, giản dị nhưng rất công phu. Từ khâu chọn rửa lá đến chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu sao cho bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc.
Ông nội tôi cho biết, việc lựa nguyên liệu để gói bánh chưng cũng phải kỹ càng, đầu tiên phải chọn lựa cẩn thận những hạt nếp từ mùa thu hoạch trước sau đó ngâm qua đêm để ráo. Phần nhân gồm có đỗ xanh, thịt lợn, hành, gia vị… cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng.
![]() |
Chiếc bánh chưng sau khi hoàn thành. |
Ông thỉnh thoảng nhắc chúng tôi vo nếp mà không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô trước khi gói đều có thể khiến bánh chóng hỏng. Đỗ xanh thì được lọc sạn giã nhuyễn, đãi bỏ hết vỏ vớt ra để ráo ngâm nước cho mềm, nở. Thịt lợn cũng chọn từ những miếng thịt lợn ngon vừa có chút mỡ chút nạc mới béo ngon. Sau đó cắt thịt thành từng miếng ướp với hành tím thái mỏng, nước mắm muối tiêu để khoảng hai giờ cho thịt ngấm. Lạt buộc thì được chẻ từ tre hoặc từ ống cây giang mỏng như lá lúa.
Sau khi chuẩn bị hết các nguyên liệu là đến công đoạn gói bánh. Đầu tiên trải lá ra mâm, đong một bát gạo nếp đổ vào dàn đều rồi đổ nửa bát đỗ; xong đến lớp thịt đã ướp rồi lại thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nếp nữa. Khéo léo đãi nếp che kín đỗ và thịt nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó xiết chặt từng chiếc lạt.
Những người có kinh nghiệm thì gói bằng tay còn không thì vẫn dùng khuôn để gói. Một chiếc bánh dùng khoảng 3- 4 lá dong, gạo và nhân bánh tùy thuộc vào độ lớn của chiếc bánh cần gói. Bánh gói làm sao phải kín, vuông, đều, đẹp.
Có lẽ vì thế khi nhìn người gói thấy đơn giản nhưng khi bắt tay vào mới biết để có được chiếc bánh chưng xanh không hề dễ chút nào. Chỉ trong một buổi chiều cặm cụi, bận rộn ông và cha đã gói hết thúng nếp. Mấy đứa cháu ngồi cạnh bên đếm bánh, làm chân sai vặt, thỉnh thoảng lại nhăc đi nhắc lại mong muốn gói chiếc bánh chưng nhỏ nhỏ cho mình.
Khoảng thời gian thú vị nhất là luộc bánh. Mọi người trong gia đình cùng nhau quây quần bên nồi bánh chưng, vừa chuyện trò, kể chuyện quả thật rất thú vị. Cảm giác ấy sẽ không bao giờ quên trong mỗi đứa con dù sau này đi xa tận mọi chân trời góc biển. Bánh chưng thường được ăn kèm với dưa kiệu, muối hay chấm nước mắm. Nhưng với người dân miền Trung lại chấm với mật mía.
Chiếc bánh chưng giờ vẫn nguyên giá trị, nằm ở vị trị trang trọng trên bàn thờ gia tiên ngày Tết. Trong cuộc sống hiện đại, tục nấu bánh chưng ngày Tết có vẻ như chỉ còn là một nghi thức, không còn nhiều gia đình quây quần bên bếp lửa hồng quanh nồi bánh chưng náo nức chờ đón giao thừa… Hương vị Tết xưa dường như không còn nguyên vẹn. Nhưng với người dân quê tôi chiếc bánh chưng xanh vẫn gắn liền với biểu tượng của ngày Tết cổ truyền của sự đầm ấm, quây quần, đậm đà bản sắc quê hương.