Cảnh báo suy giảm và cạn kiệt tài nguyên biển
Theo chuyên gia của Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, thời gian qua, các hoạt động chính gây hủy hoại trực tiếp các hệ sinh thái biển ven bờ là: nuôi đắp đầm nuôi, ao nuôi, san lấp xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác khoáng sản.
Trên thực tế, nhiều hệ sinh thái ven biển bị suy thoái, đang làm giảm năng suất và đa dạng sinh học. Biến đổi khí hậu và tác động của con người làm mất đi nhiều bãi triều, thảm cỏ biển và rạn san hô... Rừng ngập mặn bị hủy hoại nặng nề do chiến tranh, do người dân lấy củi, khai hoang, nuôi trồng thủy sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, và do cả xói lở bờ biển. Cả nước năm 1943 có khoảng 400 nghìn ha, đến nay chỉ còn khoảng 252.000ha, chủ yếu là rừng thứ sinh và rừng trồng lại.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. |
Diện tích bãi biển, vùng triều giảm mạnh do xói lở và khai thác cát. Trong các năm 1998 - 2008, diện tích san lấp lên tới 3.100 ha từ Cửa Ông đến Đồ Sơn để xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu dân cư và công nghiệp. Hoạt động của con người đã làm thay đổi hình thái địa hình và biến dạng cảnh quan tự nhiên.
Cảnh quan tự nhiên trên mặt và dưới đáy biển nhiều nơi đang bị huỷ hoại làm mất vẻ đẹp, vẻ hài hoà tự nhiên, làm giảm chất lượng môi trường sống và ảnh hưởng đến giá trị tài nguyên du lịch sinh thái.
Đặc biệt, nhiều rạn san hô và thảm cỏ biển bị hủy hoại do bùn đục, ngọt hoá, sóng bão, nhiễm bẩn và các hoạt động khai thác huỷ diệt như cào xới nền đáy, dùng thuốc nổ, hoá chất khai thác thuỷ sản. Đáng chú ý, san hô đã từng chết hàng loạt do nhiệt độ tăng đột ngột vào những năm El-nino (điển hình là ở Bạch Long Vĩ năm 1997-1998), chết do ô nhiễm chất độc (do đánh cá bằng cyanua ở Cô Tô năm 2007, do xả thải cyanua và phenol trong vụ Formosa từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế năm 2016). San hô cũng rất dễ bị phá hủy do đánh cá bằng mìn và neo đậu của tàu thuyền.
Gần đây, độ phủ các rạn san hô giảm nhanh, hiện chỉ còn khoảng khoảng 1.122 km2, tập trung ở ven biển Trung Bộ và vùng biển Trường Sa, Hoàng Sa. Các rạn san hô đã bị giảm sút cả về chất lượng và độ che phủ. Riêng ở vùng biển miền Bắc, diện tích rạn san hô đã giảm từ 1/4 đến 1/2, 85% số rạn san hô còn sống đều có chất lượng không tốt hoặc xấu.
Trong số 10 vùng tập trung cỏ biển lớn như Tam Giang, Phú Quốc, một số vùng cũng đã bị suy giảm đáng kể. Đến nay có khoảng 20% rạn có độ phủ san hô sống nghèo (độ phủ 0-25%), 60% thuộc loại thấp (26-50%), 17% còn tốt (51-75%) và chỉ có 3% rất tốt (trên 75%).
Một điểm đáng chú ý khác, các vùng cửa sông, vũng vịnh, đầm phá, nơi có các bãi giống, bãi đẻ của các loài sinh vật biển, có nguy cơ bị ô nhiễm đã làm giảm tài nguyên sinh học, ảnh hưởng đến cả nghề cá ven biển và ngoài khơi. Nguồn lợi cá biển giảm rõ rệt do khai thác quá mức và huỷ diệt bằng mìn, điện và hoá chất độc hại, mất bãi giống, bãi đẻ và ô nhiễm. Sản lượng và cường lực khai thác liên tục giảm từ 0,92tấn/cv vào năm 1990, chỉ còn 0,35tấn/cv vào năm 2003.
Các đập chứa lớn trên lưu vực cũng ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng các ven bờ. Chẳng hạn, đập Hoà Bình làm mất bãi đẻ và chặn đường di cư đi đẻ của nhiều loài cá kinh tế sống ở biển như cá mòi, cá cháy, làm giảm 42.600 tấn trong tổng số 185500 tấn trữ lượng cá biển bị giảm ở phần vịnh Bắc Bộ thuộc Việt Nam. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở nhiều khu vực cửa sông ven biển Trung Bộ, nơi phổ biến các đập trên lưu vực trữ nước tưới và sinh hoạt.
Nguyên nhân chính khiến nguồn lợi thủy sản ven bờ cạn kiệt là khai thác quá mức, thể hiện ở năng suất đánh bắt và kích thước của các loài cá đều bị giảm. Thành phần sản lượng cũng biến đổi nghiêm trọng, tỷ lệ các loài cá có giá trị cao truyền thống như cá hồng, cá song, cá chim, tôm he… giảm mạnh, thay vào đó là những loài cá tạp, cá kém chất lượng.
Sự suy giảm đa dạng sinh học còn thể hiện ở sự giảm số lượng loài sinh vật có ý nghĩa kinh tế. Chỉ trong vòng gần 30 năm (1961 - 1988), tỷ lệ đánh bắt cá hồng giảm từ 11,6% xuống 3,46%, cá sạo giảm từ 12% xuống còn 0,30%, cá phèn từ 4,81% xuống 0,13%, cá mối vạch từ 44,3% xuống 1,1%.
Nhằm bảo vệ và phát huy nguồn lợi tài nguyên biển, chuyên gia của Viện Tài nguyên và Môi trường biển khuyến nghị thời gian tới cần: Đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ tiên tiến trong khai thác tiềm năng và bảo vệ tài nguyên – môi trường biển. Đó là các giải pháp xây dựng công trình trên biển, dự báo, thăm dò khoáng sản và nguồn lợi nghề cá (ứng dụng công nghệ vệ tinh màu nước dự báo ngư trường), nuôi trồng thuỷ sản hiệu xuất cao không gây ô nhiễm, giải quyết vấn đề nước ngọt cho vùng ven biển và các đảo xa bờ, phát triển các nguồn năng lượng sạch nguồn gốc từ biển (gió, sóng, thuỷ triều, dòng chảy biển...), tách chiết các hợp chất thiên nhiên có giá trị cao từ nguồn vật liệu biển và chế biến các sản phẩm biển.
Bên cạnh đó, cần phát triển du lịch biển gắn với các khu bảo tồn biển như là một quốc sách phát triển bền vững. Các khu này, ngoài duy trì các giá trị về tự nhiên, đa dạng sinh học và khoa học, còn mang lại những lợi ích kinh tế to lớn nhờ hỗ trợ cho du lịch sinh thái và nghề cá.