Các nước ASEAN nỗ lực hiện thực hóa Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu
Các nước thành viên ASEAN vốn phải chịu rất ít trách nhiệm về hoạt động phát thải carbon trên toàn cầu nhưng trên thực tế, các quốc gia ASEAN hiện phải chịu tác động lớn từ tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu.
Các nhà lãnh đạo thế giới đã cam kết đối phó với những mối đe dọa từ tình trạng biến đổi khí hậu thông qua biện pháp đảm bảo mức tăng nhiệt độ trên toàn cầu không vượt quá 2 độ C. Trên thực tế, mức tăng được xét vào hàng viễn cảnh tốt nhất là dưới ngưỡng 1,5 độ C.
Các nước ASEAN nỗ lực hiện thực hóa Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu. (Ảnh minh họa) |
Theo ASEAN Post, đây là bước đi lớn và cần được triển khai đúng hướng thông qua việc hình thành phản ứng mang tính toàn cầu để chống lại tình trạng biến đổi khí hậu cùng lời cam kết của các nước công nghiệp trong việc giúp đỡ nhóm các nước công nghệ hóa và đang phát triển đạt được mục tiêu trong chương trình chống biến đổi khí hậu.
Mục tiêu của nhóm ASEAN-5
ASEAN vẫn là khu vực đang phát triển, do đó mức độ phát thải khí carbon hiện ở mức cao. Trong đó, mọi sự chú ý đổ dồn về các nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa nhanh chóng là nhóm ASEAN -5 gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tăng trưởng kinh tế năm 2018 của nhóm ASEAN-5 đạt trung bình 5,5%. Con số này cao hơn một chút so với mức tăng trưởng kinh tế trung bình của cả khu vực trong năm 2018 là 5,1%.
Những lĩnh vực mũi nhọn giúp nhóm ASEAN-5 tăng trưởng kinh tế gồm ngành công nghiệp sản xuất, máy móc, hóa chất và những ngành công nghiệp liên hệ. Song đây lại chính là nguồn phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính (GHG) nguy hiểm.
Để đối phó với tình trạng này, mỗi nước trong nhóm ASEAN-5 đã đưa ra những cam kết riêng để giảm thiểu phát thải carbon. Bên cạnh đó, toàn khối ASEAN cũng đang cùng hợp tác để đề ra mục tiêu chung cho khu vực trong việc tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo với mục tiêu tới năm 2025, năng lượng tái tạo sẽ chiếm 23% trong tổng số các loại năng lượng được ASEAN sử dụng.
Cụ thể, Indonesia, nền kinh tế lớn nhất trong nhóm 10 nước thành viên ASEAN đã cam kết cắt giảm 29% lượng phát khí nhà kính (GHG) vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường. Và tỷ lệ này có thể tăng lên thành 41% nếu như nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ cộng động quốc tế.
Malaysia đặt mục tiêu giảm 45% lượng phát thải GHG vào năm 2030. Trong đó, 35% là nỗ lực riêng của Malaysia và thêm 10% phụ thuộc vào việc tiếp nhận hỗ trợ nguồn tài chính chống biến đổi khí hậu, chuyển giao công nghệ và xây dựng năng lực từ các nước phát triển.
Còn Thái Lan đặt mục tiêu cắt giảm 20% lượng phát thải GHG vào năm 2030 và con số này có thể tăng lên thành 25% nếu như Thái Lan nhận được sự hỗ trợ từ quốc tế.
Trong khi đó, Việt Nam cam kết giảm 8% lượng phát thải GHG vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường và có thể giảm tiếp đến 25% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế.
Philippines cũng đặt mục tiêu cắt giảm 70% lượng phát thải GHG vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường nhưng con số này còn tùy vào sự hỗ trợ từ quốc tế.
Những nền kinh tế CLM
Trong số 10 nước thành viên ASEAN, nhóm các nền kinh tế CLM gồm Campuchia, Lào và Myanmar là những thị trường có mức tăng trưởng nhanh nhất của khu vực với mức tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 7,4%, theo ADB.
Chính phủ các quốc gia này đặt mục tiêu cải thiện thu nhập và điều kiện sống cho người dân. Do đó, nhóm CLM trở thành điểm đến lớn cho nhiều nhà đầu tư quốc tế. Chính phủ các nước CLM cũng đề ra hàng loạt dự án trong lĩnh vực năng lượng để cải thiện mục tiêu điện khí hóa thành thị và nông thôn.
Tuy nhiên, trong tiến trình đạt được những mục tiêu kinh tế đề ra, CLM để lộ năng lực quản lý môi trường cùng khuôn khổ chính sách yếu kém.
Song trên thực tế, Lào đã đưa ra cam kết thi hành loạt chính sách và hành động nhằm giảm thiểu phát thải khí carbon.
Campuchia cũng hướng tới mục tiêu giảm 27% lượng phát thải GHG vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường cùng tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 60% vào năm 2030.
Myanmar dù không dứt khoát đặt ra mục tiêu cắt giảm lượng phát thải khí carbon, song cam kết có những nỗ lực giảm lượng phát thải bằng cách tăng năng suất thủy điện đạt 9.4 GW vào năm 2030 cùng kế hoạch điện khí hóa nông thôn đạt ít nhất 30% từ các nguồn năng lượng tái tạo và tăng tỷ lệ che phủ rừng đạt 30% vào năm 2030.
Thách thức với Brunei và Singapore
Brunei và Singapore, hai quốc gia công nghiệp hóa lớn nhất của ASEAN cũng đang đối mặt với những thách thức khác nhau trong việc đóng góp vào hiện thực hóa Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu.
Singapore là quốc gia có nhiều sáng kiến để cùng thế giới chống lại hiện tượng biến đổi khí hậu. Theo đó, Singapore dẫn đầu trong việc phát triển công nghệ bao gồm xây dựng các tòa nhà sử dụng năng lượng hiệu quả cùng mạng lưới điện thông minh được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo. Singapore còn đặt mục tiêu cắt giảm 36% lượng phát thải GHG vào năm 2030. Điều đáng nói, Singapore dự kiến đạt được mục tiêu trên bằng chính năng lực quốc gia mà không cần tới sự hỗ trợ từ cơ chế thị trường quốc tế.
Còn Brunei lại là quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc lớn vào lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt. Đây là ngành công nghiệp nặng chịu trách nhiệm làm gia tăng phát thải GHG.
Song Brunei cũng đặt mục tiêu cắt giảm 63% tổng sản lượng tiêu thụ năng lượng vào năm 2035 so với kịch bản phát triển thông thường. Bên cạnh đó, Brunei cũng sẽ tìm cách giảm sự lệ thuộc vào ngành dầu mỏ và gia tăng 10% sản lượng năng lượng từ các nguồn tái tạo vào năm 2035. Ngoài ra, Brunei cam kết cắt giảm 40% lượng phát thải CO2 từ các phương tiện giao thông vào giờ cao điểm buổi sáng vào năm 2035.