Vì sao bệnh nhạc sĩ Phó Đức Phương mắc được coi là ‘ung thư tử thần?’
Nhạc sĩ Phó Đức Phương qua đời sáng 19/9 sau thời gian ngắn chống chọi với căn bệnh ung thư tuỵ. Dù chỉ đứng hàng thứ 8-9 số người mắc nhưng vì sao căn bệnh này lại được gọi là "ung thư tử thần"?
Căn bệnh nhạc sỹ Phó Đức Phương mắc vì sao gọi “ung thư tử thần'? |
Căn bệnh ung thư “tử thần”
Theo Tổ chức Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN), ung thư tụy đứng hàng thứ 8-9 về số lượng người mắc trên toàn thế giới. Ước tính, năm 2018, Việt Nam có gần 1.000 người mắc mới ung thư tụy và gần 900 trường hợp tử vong.
Tuyến tụy nằm sâu sau phúc mạc, dạ dày, đại tràng ngang, được bao bọc bởi nhiều cơ quan và mạch máu quan trọng (tá tràng, gan, lách, động mạch treo tràng trên, tĩnh mạch gánh) nên việc chẩn đoán, can thiệp điều trị ngoại khoa rất khó khăn.
Ung thư tụy được đánh giá là bệnh khó phát hiện, khó điều trị và có tỷ lệ tử vong cao. Vì vậy, bệnh ung thư tuỵ được gọi là "ung thư tử thần".
Theo Bác sĩ Nguyễn Ngọc Anh, Trưởng Khoa Ung bướu và Y học hạt nhân, Bệnh viện Nhân dân 115 (TP.HCM), tuyến tụy liên quan đến gan, mật. Khi ung thư tụy phát triển sẽ chèn ép vào đường mật, gây tắc mật, dẫn đến gan ứ mật và suy gan. Bệnh nhân tử vong trong tình trạng suy gan trước khi ung thư tụy hoành hành.
BS. Lê Công Định - Khoa Nội II, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội cho biết thêm, triệu chứng của ung thư tụy giai đoạn sớm thường nghèo nàn.
Tuy nhiên, khi bệnh lan tràn, triệu chứng lâm sàng khá đa dạng, thay đổi tùy theo vị trí khối u và mức độ lan rộng của nó. Theo thống kê, 60-70% u nằm ở vùng đầu tụy, 20-25% nằm ở thân/đuôi tụy, u chiếm toàn bộ thể tích của tụy chiếm tỉ lệ thấp.
TS. Đỗ Tuấn Anh - Trưởng khoa Phẫu thuật Gan mật, BV Hữu nghị Việt Đức cho biết, ung thư tụy là một trong những bệnh lý ác tính nhất của đường tiêu hóa, đứng hàng thứ 6 trong các ung thư đường tiêu hóa và thứ 5 về tỉ lệ tử vong. Tỷ lệ sống thêm 5 năm chung cho tất cả các giai đoạn không quá 4%. Bệnh nhân ung thư tụy không thể phẫu thuật có tỷ lệ tử vong gần 60-70% trong những năm đầu.
Nguyên nhân gây ung thư tụy hiện vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố nguy cơ có liên quan mật thiết tới cơ chế bệnh sinh của ung thư tụy.
Yếu tố di truyền: Khoảng 10-15% ung thư tụy có liên quan tới yếu tố di truyền. Sự liên quan của yếu tố di truyền với ung thư tụy có thể được chia thành 2 nhóm:
Người mắc hội chứng di truyền liên quan đến tăng nguy cơ ung thư tụy: ví dụ người mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng do di truyền (có đột biến gen BRCA1, BRCA2) có nguy cơ bị ung thư tụy theo thời gian là 3-5% hoặc người bị ung thư đại tràng không polyp có tính chất gia đình - hội chứng Lynch II (do đột biến gen sửa chữa ghép cặp sai-dMMR) có nguy cơ bị ung thư tụy theo thời gian là 4%, người bị viêm tụy do di truyền có nguy cơ bị ung thư tụy là 24-40% do có đột biết gen PRSS1, SPINK1.
Ung thư tụy có tính chất gia đình (familial pancreatic cancer): được xác định khi trong gia đình cặp có bố/mẹ -con hoặc cặp anh/chị-em cùng bị ung thư tụy. Đột biến mầm của gen BRCA1, BRCA2 được phát hiện trong khoảng 13-19% bệnh nhân ung thư tụy có tính chất gia đình.
Một số yếu tố nguy cơ của ung thư tụy bao gồm hút thuốc lá, béo phì, di truyền, đái tháo đường, chế độ ăn, lối sống ít hoạt động.
Theo đó, các triệu chứng thường gặp của ung thư tụy bao gồm:
Đau bụng: là một trong những dấu hiệu thường gặp nhất. Đau bụng thường bắt đầu xuất hiện trước khi phát hiện bệnh khoảng 1- 2 tháng và tăng dần theo tiến triển của bệnh nhưng ban đầu thường chỉ đau thoáng qua vùng thượng vị nên dễ nhầm với viêm dạ dày.
Đau thường khởi phát ở vùng thượng vị, khi bệnh tiến triển thường lan sang 2 bên và/hoặc xuyên ra sau lưng, cơn đau có thể không liên tục nhưng thường nặng hơn sau khi ăn hoặc khi nằm ngửa khiến người bệnh phải nằm tư thế cuộn tròn cho đỡ đau; đau nhiều ra sau lưng thường gặp khi khối u nằm ở vùng thân hoặc đuôi tụy hơn là vùng đầu tụy.
Thông thường đau bụng trong ung thư tụy xuất hiện từ từ, tăng dần theo kiểu “vết dầu loang” theo tiến triển của bệnh, song cũng có trường hợp người bệnh đột ngột đau một cách dữ dội do u làm tắc ống tụy gây viêm tụy cấp.
Ngoài ra, bệnh nhân mắc ung thư tuỵ thường có hội chứng tắc mật với biểu hiện vàng da, nước tiểu sẫm màu.
Vàng da do ung thư tụy là vàng da liên tục, tăng dần do u gây tắc ống mật chính làm dịch mật từ gan không xuống được tá tràng, hậu quả là mật vào trong máu gây vàng da và nước tiểu sẫm màu. Vàng da thường gặp và xuất hiện sớm với những khối u vùng đầu tụy
Một biểu hiện khác của ung thư tuỵ là đi ngoài sống phân. Nguyên nhân là do khối u gây cản trở men tụy xuống ruột non tiêu hóa thức ăn. Đây là một trong những nguyên nhân làm người bệnh ung thư tụy bị suy kiệt rất nhanh, do vậy cần bổ sung men tụy kịp thời.
Song song với đó, người mắc ung thư tuỵ thường sẽ bị suy nhược cơ thể, sụt cân, chán ăn, nôn, tiêu chảy. Đồng thời có thể xuất hiện đồng thời bệnh đái tháo đường.
Nhưng có khoảng 25% bệnh nhân ung thư tụy có khởi phát bệnh tiểu đường trước khi phát hiện ung thư tụy trong thời gian dưới 2 năm.
Cho đến nay, y học vẫn chưa xác định chính xác nguyên nhân ung thư tụy. Tuy nhiên, các yếu tố nguy cơ cao dẫn đến ung thư tụy được các bác sĩ khuyến cáo gồm: Lạm dụng rượu bia, chất có cồn gây ra viêm tụy mạn tính. Những bệnh nhân viêm tụy mạn tính có tỷ lệ ung thư tụy cao gấp 20 lần bình thường, cũng như ảnh hưởng đến vấn đề tiểu đường và các bệnh nội tiết khác...
Bệnh nhân hút thuốc lá có tỷ lệ ung thư tụy cao gấp 16 lần bình thường. Ăn quá mặn, quá nhiều chất béo cũng là những yếu tố cao gây ung thư.
“Đặc biệt, người có ba, mẹ, anh, chị, em ruột bị ung thư tụy nên có ý thức tầm soát ung thư vì đây là bệnh lý có tính di truyền”, bác sĩ Ngọc Anh khuyến cáo thêm.
N.Huyền-Khánh Chi