Doanh nghiệp thép có bị ảnh hưởng khi Malaysia áp thuế chống phá giá lên thép Việt?
Trong số các doanh nghiệp thép của Việt Nam có sản phẩm nằm trong danh mục bị áp thuế, Hoa Sen Group bị phía Malaysia áp thuế tương đối cao, 16,55%. Các DN như thép Nam Kim, Hòa Phát cũng có tên trong danh sách
Vừa qua, Malaysia đã thông báo sẽ áp thuế chống bán phá giá chính thức lên các sản phẩm thép phẳng không hợp kim mạ nhôm và kẽm với mức thuế dao động từ 3,1%-37,1%.
Trong số các doanh nghiệp thép của Việt Nam có sản phẩm nằm trong danh mục bị áp thuế, Hoa Sen Group bị phía Malaysia áp thuế tương đối cao, 16,55%.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào tỷ trọng của thị trường Malaysia trong cơ cấu xuất khẩu của Hoa Sen Group trong năm 2020, có thể thấy đây không phải là thị trường quá quan trọng đối với công ty, chỉ chiếm 4%-5% trong năm 2020.
Nam Kim Group và Hòa Phát Group bị áp mức thuế lần lượt là 5% và 3%, thấp hơn so với nhiều công ty Trung Quốc và Hàn Quốc, những đối thủ của các doanh nghiệp thép Việt Nam tại thị trường |
Do đó, có thể thấy mức thuế trên sẽ không ảnh hưởng quá lớn lên sản lượng xuất khẩu của Hoa Sen Group trong năm 2021. Trong khi đó, các doanh nghiệp khác như Nam Kim Group và Hòa Phát Group bị áp mức thuế lần lượt là 5% và 3%, thấp hơn so với nhiều công ty Trung Quốc và Hàn Quốc, những đối thủ của các doanh nghiệp thép Việt Nam tại thị trường này.
Điều này sẽ giúp Nam Kim và Hòa Phát duy trì được khả năng cạnh tranh tại Malaysia, quốc gia vốn nhập khẩu tôn chủ yếu từ Việt Nam, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Ngoài 3 “ông lớn” kể trên, một số doanh nghiệp sản xuất thép tại Việt Nam có sản phẩm thép phẳng không hợp kim mạ nhôm và kẽm bị phía Malaysia áp thuế gồm: Tôn Đông Á 13,27%; Tan Phuoc Khanh 4%; Southern Steel Sheet 3,94%; Maruichi Sun Steel 4,4%,…
Trong năm 2020, các sản phẩm thép phẳng của Việt Nam cũng bị đưa vào các cuộc điều tra chống bán phá mới tại các thị trường Úc, Philippines, Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi đó, Canada đã gỡ bỏ mức thuế chống trợ cấp lên thép chống ăn mòn từ Việt Nam.
Theo nhận định của CTCK Rồng Việt (VDSC), do các thị trường trên chiếm tỷ trọng khoảng 3,5% trong cơ cấu xuất khẩu thép phẳng của Việt Nam, do đó tác động của các vụ kiện trên lên các nhà sản xuất Việt Nam là không quá lớn.
Dù chịu tác động tiêu cực từ dịch bện và các cuộc điều tra chống bán phá giá tại một số thị trường, năm 2020 vẫn là một năm thành công đối với hoạt động xuất khẩu thép của Việt Nam. Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, sản lượng xuất khẩu thép xây dựng và tôn mạ đã tăng lần lượt 7% và 14% trong năm 2020.
Do sản lượng thép Việt Nam hầu như không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, trong khi nhiều quốc gia ghi nhận mức sụt giảm mạnh về sản lượng, các nhà sản xuất thép Việt Nam đã tận dụng được cơ hội để giành thêm thị phần tại nhiều thị trường, như Trung Quốc, Thái Lan và EU.
Để thúc đẩy nên kinh tế sau khi dịch bùng phát, nhu cầu đối với thép xây dựng từ các dự án cơ sở hạ tầng đã mạnh hơn tại một số quốc gia. Xuất khẩu thép từ Việt Nam sang Trung Quốc và Thái Lan đã tăng mạnh lần lượt 718% và 82% trong năm 2020, với các sản phẩm chủ yếu là thép xây dựng và phôi thép.
Ngược lại, thương mại thép với một số quốc gia gặp khó khăn trong nửa đầu năm 2020. Nhiều nhà sản xuất tôn mạ đã không thể hoàn thành các thủ tục xuất khẩu sang Indonesia trong giai đoạn nước này ghi nhận số ca nhiễm Covid-19 tăng nhanh. Điều này khiến sản lượng xuất khẩu sang Indonesia giảm 37% so với năm 2019 khi các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể xuất khẩu vào thị trường này từ tháng 7/2020.
Theo VDSC, sản lượng xuất khẩu tôn mạ sẽ tiếp tục tăng trưởng khả quan trong năm 2021 do nhu cầu cao từ thị trường châu Âu và các khó khăn ngắn hạn trong xuất khẩu tại một số thị trường được tháo gỡ. Một số nhà xuất khẩu thép phẳng lớn như Hoa Sen và Nam Kim dự kiến sẽ duy trì sản lượng xuất khẩu tốt sang châu Âu đến hết quý 1/2021 dựa trên lượng đơn đặt hàng hiện tại.
Các nước xuất khẩu thép phẳng lớn tại thị trường này đã ghi nhận mức giảm mạnh về sản lượng xuất khẩu do bị áp hạn ngạch. Cụ thể, dù sản lượng nhập khẩu của EU chỉ giảm 20% trong 9 tháng đầu năm 2020, sản lượng nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ, nhà cung cấp thép lớn nhất của EU, đã giảm 30%, từ 3,4 triệu tần còn 2,4 triệu tấn. Điều này đã mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Tỷ trọng của thị trường EU trong sản lượng xuất khẩu thép phẳng của Việt Nam đã tăng mạnh từ mức 2-3% trong năm 2019 lên 9% trong quý 4 năm 2020. Bên cạnh đó, những khó khăn trong xuất khẩu tại một số thị trường chính như Indonesia đã giảm khi dịch Covid-19 được kiếm soát tốt hơn tại quốc gia này.
Ngân Giang