Sửa Luật Đất đai: Cần phân định rõ phạm vi “sở hữu toàn dân”.
Theo Luật sư Đinh Thế Hùng, Trưởng Văn phòng luật sư Bách Sự Thuận – Đoàn luật sư TP.Hà Nội: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng phải phân định rõ quyền sở hữu của Nhà nước đến đâu và của người dân đến đâu. Theo đó, người dân được sở hữu trong hạn mức và đúng mục đích sử dụng theo quy định của Nhà nước đối với đất ở và đất nông nghiệp, Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu các loại đất còn lại và đất ở, đất nông nghiệp ngoài hạn mức.
Việc quy định người dân được quyền sở hữu đối với đất ở và đất nông nghiệp theo hạn mức và đúng mục đích sử dụng vừa giúp người dân an tâm đầu tư cho mảnh đất của mình, vừa giải quyết được mọi vấn đề liên quan đến đất đai như: lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tham nhũng, lãng phí trong quản lý đất đai; thu hồi đất; tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; …
Luật sư Đinh Thế Hùng |
Nhà nước đại diện chủ sở hữu về đất đai nhưng Luật cần quy định rõ quyền của cơ quan quyền lực (Quốc hội) và quyền của cơ quan hành pháp (Chính phủ) trong quản lý đất đai. Cụ thể, Quốc hội phải quản lý quy hoạch và giá đất. Có như vậy mới tránh được tình trạng quy hoạch của mỗi tỉnh, thành phố bị chính tỉnh, thành phố đó phá vỡ và sự khác nhau về giá đền bù ở cùng một dự án khi dự án nằm trên vài tỉnh, thành phố khác nhau.
Khi thu hồi đất, nếu vì mục đích an ninh, công cộng, Nhà nước sẽ đền bù theo khung giá; còn vì mục đích khác thì chuyển nhượng, giá do hai bên quyết định. Điều này hạn chế được sự tùy tiện trong việc lấy đất và tránh sự tùy tiện trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Kỳ quy hoạch phải “dài hơn” nhằm đảo bảo tầm nhìn sử dụng đât. Có thể nâng kỳ hoạch sử dụng đất lên 20 năm, tầm nhìn 30 năm.
Thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, thương mại, dịch vụ chỉ nên thuộc cấp tỉnh và phải đặc biệt tuân thủ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Việc chuyển đất nông nghiệp, xen kẹt, phù hợp với quy hoạch cũng cần quy định rõ ràng, tránh tiêu cực, nhũng nhiễu của cán bộ có thẩm quyền.
Thời hạn cho thuê đất nông nghiệp, ngoài hạn mức, nên ấn định là 50 năm, không nên quy định “Thời hạn cho thuê đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng là không quá năm mươi (50) năm” để tránh sự tùy tiện, tham nhũng của người có thẩm quyền ký hợp đồng thuê đất, người thuê đất cũng an tâm đầu tư.
Cũng theo Luật sư Đinh Thế Hùng, cần chấm dứt tình trạng “đổi đất lấy hạ tầng”, vì đây là lĩnh vực nảy sinh nhiều tiêu cực nhất.
Ngoài ra, các dự án đã được phê duyệt, được bàn giao đất phải nghiêm túc thực hiện việc triển khai dự án về mặt tiến độ. Nếu quá thời hạn, doanh nghiệp không đưa dự án vào hoạt động sẽ không gia hạn mà thu hồi và giao lại cho người dân sử dụng, khi Nhà nước cần sẽ lấy lại và chỉ đền bù hoa lợi trên đất; Nhà nước cũng không phải bồi hoàn cho doanh nghiệp khoản tiền doanh nghiệp đã chi trả cho việc bồi thường giải phóng mặt bằng. Có như vậy mới loại bỏ được những nhà đầu tư không có năng lực, không có mục đích sử dụng đất thực tế từ đó tránh tiêu cực trong đội ngũ cán bộ có thẩm quyền; tránh lãng phí nguồn lực, tài lực, nhân lực.