Những thành viên đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Ít người biết trong số 34 cán bộ, chiến sĩ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam có tới 29 thành viên là người dân tộc thiểu số. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng.
Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền tiải phóng quân
Đứng trước những yêu cầu thực tiễn của cách mạng, tháng 12/1944, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách.
Bản Chỉ thị lịch sử này là một văn kiện có tính chất cương lĩnh quân sự của Đảng, đề cập một cách toàn diện đường lối quân sự của Đảng. Bản chỉ thị nhấn mạnh: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả, thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng. Cho nên, theo chỉ thị mới của đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao-Bắc-Lạng số cán bộ, đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam)
Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập nên một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.
Đối với các đội vũ trang địa phương: Đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến. Về chiến thuật sẽ vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác.
Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, những tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Bắc chí Nam, khắp đất nước Việt Nam.
Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 22/12/1944, tại khu rừng thuộc huyện Nguyên Bình (Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã chính thức làm lễ thành lập, gồm 3 tiểu đội, với 34 chiến sĩ được chọn lọc từ những chiến sĩ du kích Cao Bắc – Lạng, do Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Trong số 34 cán bộ, chiến sĩ của đội có 29 người là dân tộc thiểu số. Cụ thể, dân tộc Tày: 19 chiến sĩ, dân tộc Nùng: 8 chiến sĩ, dân tộc Mông: 1 chiến sĩ, dân tộc Dao: 1 chiến sĩ; còn lại 5 chiến sĩ người dân tộc Kinh.
Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Từ căn cứ địa Cao Bằng, ngay sau lễ thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã xuất quân thực hiện chỉ thị “phải đánh thắng trận đầu” của lãnh tụ Hồ Chí Minh. 17 giờ ngày 24/12/1944, bằng một trận đánh táo bạo và mưu trí, đơn vị đã tiêu diệt đồn Phay Khắt (đóng tại xã Cam Lộng, Nguyên Bình, Cao Bằng) và 7 giờ sáng hôm sau (25/12) lại tiêu diệt tiếp đồn Nà Ngần (cách Phay Khắt 15km) diệt 2 tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phay Khắt – Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống Quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Danh sách 34 đội viên đầu tiên
STT | Tên | Bí danh | Dân tộc | Quê quán |
1 | Trần Văn Kỳ | Hoàng Sâm | Kinh | Tuyên Hoá, Quảng Bình |
2 | Dương Mạc Thạch | Xích Thắng | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
3 | Hoàng Văn Xiêm | Hoàng Văn Thái | Kinh | Tiền Hải, Thái Bình |
4 | Hoàng Thế An | Thế Hậu | Tày | Hà Quảng, Cao Bằng |
5 | Bế Bằng | Kim Anh | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
6 | Nông Văn Bát | Đàm Quốc Chưng | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
7 | Bế Văn Bồn | Bế Văn Sắt | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
8 | Tô Văn Cắm | Tiến Lực | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
9 | Nguyễn Văn Càng | Thu Sơn | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
10 | Nguyễn Văn Cơ | Đức Cường | Kinh | Hoà An, Cao Bằng |
11 | Trần Văn Cù | Trương Đắc | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
12 | Hoàng Văn Củn | Quyền, Thịnh | Tày | Võ Nhai, Thái Nguyên |
13 | Võ Văn Dảnh | Luân | Kinh | Tuyên Hoá, Quảng Bình |
14 | Tô Vũ Dậu | Thịnh Nguyên | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
15 | Dương Văn Dấu | Đại Long | Nùng | dien hai |
16 | Chu Văn Đế | Nam | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
17 | Nông Văn Kiếm | Liên | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
18 | Đinh Văn Kính | Đinh Trung Lương | Tày | Thạch An, Cao Bằng |
19 | Hà Hưng Long | Tày | Hoà An, Cao Bằng | |
20 | Lộc Văn Lùng | Văn Tiên | Tày | Cao Lộc, Lạng Sơn |
21 | Hoàng Văn Lường | Kính Phát | Nùng | Ngân Sơn, Bắc Kạn |
22 | Hầu A Lý | Hồng Cô | Mông | Nguyên Bình, Cao Bằng |
23 | Long Văn Mần | Ngọc Trình | Nùng | Hoà An, Cao Bằng |
24 | Bế Ích Nhân | Bế Ích Vạn | Tày | Ngân Sơn, Bắc Kạn |
25 | Lâm Cẩm Như | Lâm Kính | Kinh | Thạch An, Cao Bằng |
26 | Hoàng Văn Nhủng | Xuân Trường | Tày | Hà Quảng, Cao Bằng |
27 | Hoàng Văn Minh | Thái Sơn | Nùng | Ngân Sơn, Bắc Kạn |
28 | Giáp Ngọc Páng | Nông Văn Bê | Nùng | Hoà An, Cao Bằng |
29 | Nguyễn Văn Phán | Kế Hoạch | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
30 | Ma Văn Phiêu | Bắc Hợp | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
31 | Đặng Tuần Quý | Dao | Nguyên Bình, Cao Bằng | |
32 | Lương Quý Sâm | Lương Văn Ích | Nùng | Hà Quảng, Cao Bằng |
33 | Hoàng Văn Súng | La Thanh | Nùng | Hà Quảng, Cao Bằng |
34 | Mông Văn Vẩy | Mông Phúc Thơ | Nùng | Võ Nhai, Thái Nguyên |