Nhật phát triển máy bay chống ngầm P-1 ngăn chặn Trung Quốc
Trong những tranh chấp gần đây trên vùng nước biển Hoa Đông và Biển Đông, để phát triển lực lượng răn đe chiến lược, chiến dịch. Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ lực lượng tàu ngầm tấn công (bao gồm cả tàu ngầm nguyên tử).
Sự phát triển lực lượng tàu ngầm của PLAN (Hải quân Trung Quốc) và những toan tính địa chính trị của Mỹ khiến chính phủ Nhật Bản lo lắng, mục tiêu phát triển lực lượng Phòng vệ Hải quân hùng mạnh, đủ sức ngăn chặn tàu ngầm Trung Quốc và bảo vệ được quần đảo Senkaku.
Nhằm thay thế lực lượng P-3 Orion đã lỗi thời, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp quốc phòng vốn đã có nền tảng cơ bản và sự thăng hoa mạnh mẽ của công nghiệp điện tử, Nhật Bản quyết định phát triển máy bay chiến đấu cho riêng mình, khởi điểm là máy bay chống ngầm.
Với những nỗ lực hết sức và sự kiên quyết của Lực lượng Phòng vệ Hải quân Nhật Bản, Công ty Kawasaki và các công ty công nghiệp khác đã thành công trong dự án chế tạo máy bay chống ngầm - tuần biển P-1 với những tính năng vượt trội hơn cả với P-8A Poseidon.
Khát vọng tự lực tự cường của các nhà chế tạo và sản xuất máy bay Nhật Bản không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chế tạo máy bay trực thăng. Vào năm 2000, các nhà thiết kế của đất nước Mặt trời mọc đã kịp thử thách mình trong các phương án khác nhau, đôi khi thể hiện các phương pháp tiếp cận vấn đề vô cùng thú vị và độc đáo. Một trong những phương pháp độc đáo đó là phát triển một thiết kế dùng chung cho cặp anh em song sinh máy bay vận tải quân sự C-X và chống ngầm tuần biển P-X, được một nhóm các công ty do "Kawasaki" đứng đầu vào năm 2001.
Ý tưởng khá đơn giản - tiết kiệm chi phí trong quá trình sáng chế, thử nghiệm, sản xuất và bảo trì máy bay do có sự thống nhất của thiết kế hệ thống và trang thiết bị điều khiển trên thân máy bay (onboard). Cũng phải thẳng thắn nhận định, đây không phải là ý tưởng độc nhất vô nhị trong chế tạo hàng không. Nó đã từng được thực hiện trong việc thiết kế An – 10 và An – 12.
Nhưng khó mà có ai có thể tiếp nhận được phương pháp này cho hai loại máy bay hoàn toàn khác nhau về công dụng, mục đích sử dụng cũng như yêu cầu kỹ thuật. Ví dụ như: Tải trọng cất cánh của máy bay P-X là 80 tấn, còn máy bay vận tải là 141 tấn ( khoảng cách chênh lệch đến 76%). P-X là loại máy bay có trần bay thấp, nhưng vận tải thì có trần bay cao. Loại thứ nhất có 4 động cơ, loại vận tải lại chỉ có 2.
Không cần bàn đến chuyện hai chiếc máy bay này, ống xả hoàn toàn khác nhau, khung sườn, khung càng máy bay cũng khác nhau và rất nhiều các trang thiết bị trên thân máy bay có những chức năng riêng biệt theo đặc thù nhiệm vụ. Khi các chuyên gia Kawasaki bắt đầu khởi động dự án, khẩu hiệu của họ là “ một dự án – hai sản phẩm”. Nhưng khẩu hiệu đó đã được quên lãng từ lâu, với sự nỗ lực hết mình, các kỹ sư Nhật Bản cũng đạt được những điểm chung nhất cho hai thiết kế.
Ngày nay cả hai máy bay đều có thiết kế chung cabin lắp kính, các bộ phận bên ngoài cánh máy bay, cánh ổn định ngang, bảng điều khiển hiện đại trong cabin của phi công, hệ thống máy tính điều khiển bay, trạm nguồn dự phòng, hệ thống kiểm soát đường không, hệ thống cảnh báo sớm… Nói chung, các nhà thiết kế Nhật cũng khẳng định, đã tiết kiệm được trong quá trình phát triển và chế tạo máy bay là 218 triệu USD trong tổng số 3 tỷ USD thực hiện dự án theo bảng giá năm 2007.
Như vậy, trong quá trình phát triển máy bay, các kỹ sư Nhật đã tiết kiệm được khoảng 7% giá thành phát triển và hy vọng rằng họ vẫn còn tiết kiệm được từ việc giảm giá thành sản xuất và giảm các chi phí khai thác sử dụng,sẽ dễ dàng thấy được, các nhà sản xuất máy bay sẽ tiết kiệm được đến 10% giá thành của một chiếc máy bay.
Trong quyết định của Văn phòng Lực lượng phòng vệ Hải dương Nhật Bản về dự án phát triển máy bay song sinh có ẩn chứa một ý định mang tính chính trị. Các tướng lĩnh Nhật Bản kiên quyết từ chối đề nghị của Mỹ cho việc cung cấp máy bay tuần biển thế hệ mới P-8 Poseidon, được phát triển dựa cơ sở của máy bay Boeing 737, máy bay vận tải quân sự C-130J của Lockheed Martin và máy bay Boeing C-17.
Nguyên nhân chính thức theo thông báo- không đáp ứng những yêu cầu kỹ thuật đặc thù của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Những vấn đề hoàn toàn không nằm ở đó. Nguyên nhân chính là mua nguyên chiếc không còn phù hợp với những tham vọng phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng Nhật Bản.
Cả hai dự án được phát triển (đến tận ngày hôm nay) trong tinh thần khiêm tốn nhất, xứng đáng như bản chất truyền thống của các samurai. Dự án không có những thông báo ồn ào – để không thể phát biểu là bí mật tuyệt đối. P-X lần đầu tiên cất cánh vào không trung ngày 28 tháng 9 năm 2007 từ căn cứ không quân Gifu. Trong buổi lễ lần đầu tiên bay vào bầu trời chỉ có mặt những VIP của chính phủ và quân đội. Chuyến bay kéo dài 1 giờ và kết thúc thành công. Thời gian gần đây xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng 2 – 3 bức ảnh chụp cặp anh em song sinh này. Nói chung, công luận biết không nhiều về dự án.
Máy bay chống ngầm và tuần biển P-1 |
Về máy bay chống ngầm P-X chỉ có thể nói rằng nó được thiết kế để thay thế các máy bay tuần biển P-3 "Orion" của Mỹ, P-3 đầu tiên bay trên bầu trời Nhật Bản vào năm 1958 (tức là 50 năm trước đây!) Đã phục vụ trung thành và tận tụy trong Lực lượng Phòng vệ Hải quân Nhật bản được hơn 20 năm.
Lực lượng Phòng vệ Hải quân dự định mua 80 chiếc máy bay chống ngầm, đợt hàng đầu tiên đã được đưa vào biên chế vào năm 2011. Để nâng cao hiệu quả chiến đấu và dễ dàng của phi hành đoàn, máy bay được trang bị với hệ thống với trí thông minh nhân tạo, trong lĩnh vực này Nhật Bản có truyền thống và phát triển rất mạnh.
Ví dụ: Tương tự như máy bay SH - 60K, hệ thống điều hành tác chiến đấu tiên tiến có thể đưa ra các phương án TACCO quy trình bay tấn công một chiếc tàu ngầm trên biển và đề xuất giải pháp tối ưu nhất, phù hợp với các tiêu chí nhất định của tác chiến hiện đại. Thật thú vị khi nhận biết rằng, P-X sẽ là máy bay đầu tiên trên thế giới được sản xuất hàng loạt với hệ thống điều khiển máy bay bằng sợi quang.
So với các hệ thống điều khiển theo truyền thống như hiện nay, hệ thống điều khiển sử dụng sợi quang có khả năng ổn định rất cao khi hoạt động trong môi trường nhiễu xạ điện từ trường, cũng như chịu đựng được những tác động của xung điện từ của một vụ nổ hạt nhân.
Giống như các loại máy bay tuần biển Hawker Siddeley Nimrod, S-3 Viking và P-8 Poseidon, P-1 được thiết kế sử dụng động cơ turbin cánh quạt phản lực. XP-1 được trang bị 4 động cơ phản lực turbin cánh quạt IHI F7-10 được gắn thấp dưới cánh. Các động cơ này đã được cấp lisence để sản xuất hàng loạt. Năm 2005 các động cơ turbin đã vinh quang vượt qua lần thử nghiệm khắt khe tại phòng thí nghiệm bay C1.
Trang thiết bị điện tử trang bị cho máy bay được tính là phát hiện tất cả những biến động từ các trường vật lý xuất hiện trên tầu ngầm, trên máy bay có các pháo sonar thủy âm, đài radar mảng pha Toshiba HPS-106 Active Electronically Scanned Array (AESA), thiết bị đo độ biến thiên từ trường bất thường (MAD), các sensor cảm biến hồng ngoại, ánh sáng cường độ thấp nhằm phát hiện nguồn bức xạ hồng ngoại, ánh sáng yếu của tầu ngầm và tầu xuồng nhỏ. Máy bay có thể liên kết và chia xẻ thông tin cho đồng minh, sử dụng loại máy bay chống ngầm Boeing P-8 Poseidon do các cảm biến và thiết bị của hệ thống MAD được chế tạo từ công ty CAE của Canada.
Khoang máy bay được dùng để chứa các ngư lôi chống ngầm, phía dưới hai cánh có 8 giá treo vũ khí, có thể được lắp tên lửa chống ngầm hoặc bom chìm. Với một khối lượng lớn các trang thiết bị rất hiện đại, giá thành của máy bay khi sản xuất hàng loạt sẽ khoảng 141,5 triệu USD, nếu so với các máy bay tương đương của Mỹ thì giá thành quả thật không hề đắt. Vào năm 2008, máy bay P-X được đổi tên thành P-1 (XP-1).
Thông số chung
Kíp lái: Phi công: 2 – Thành viên tác chiến: 11
Dài: 38.0 m (124 ft 8 in)
Sải cánh: 35.4 m (114 ft 8 in)
Cao: 12.1 m (39 ft 4 in)
Tải trọng cất cánh max: 79,700 kg (176,000 lb)
Đông cơ phản lực : 4 × XF7-10 turbofan của công ty IHI Corporation, 13,500 lbs (60 kN) cho mỗi động cơ
Tính năng kỹ thuật
- Tốc độ V max: 996 km/h (538 knots, 619 mph)
- Tốc độ Vtb ht: 833 km/h (450 knots, 516 mph)
- Tầm bay xa: 8,000 km (4,320 nm, 4,970 mil)
- Trần bay: 44,200 ft (13,520 m)
Vũ khí trang bị
Tải trọng chiến đấu : 20,000+ lb (9,000+ kg)
Tên lửa chống tầu: AGM-84 Harpoon, ASM-1C, AGM-65 Maverick
Phao sonar : 30+ đã có sẵn, 70+ chiếc còn lại phải chuẩn bị trong khoang
Ngư lôi, bom: MK-46, Type 97 hoặc loại mới hơn (G-RX5), thủy lôi, bom chìm.
Trang thiết bị điện tử
Radar: Toshiba, Active Electronically Scanned Array radar system
Sonar: NEC, multi-static sound navigation system sound
Hệ thống chống ngầm (Anti-submarine systems):SHINKO ELECTRIC CO.LTD., Hệ thống điều hành tác chiến trí thông minh nhân tạo.
Các trang thiết bị điện tử khác: Của các tập đoàn Mitsubishi, Electronic countermeasures (CMD, RWR, MWS, ESM).
Nguồn: Kawasaki Heavy Industries. Kawasaki Sky-High Expectations for Japan's P-X and C-X Aircraft