Hệ lụy đáng sợ của nước biển dâng
Mực nước biển dâng chính là hậu quả lớn nhất của biến đổi khí hậu. Trong thế kỷ qua, mực nước biển thế giới dâng trung bình 1,8 mm/năm.
Gần đây, kỹ thuật vệ tinh xác định từ năm 1993 – 2000, mực nước biển dâng ở mức 2,9 - 3,4 mm/năm. Do tác động của con người, nguy cơ này còn lâu dài trong tương lai.
Ngày 13/11/2013, Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) công bố rằng năm 2013, mực nước biển toàn cầu dâng lên mức cao kỷ lục. Tốc độ mực nước biển dâng hiện tại là 3,2mm/năm, cao gấp đôi con số 1,6mm/năm của thế kỷ 20.
Việt Nam là quốc gia chịu nhiều tác động môi trường do ảnh hưởng của hiện tương dâng cao mực nước biển.
Theo số liệu quan trắc tại 3 trạm Hòn Dáu (Hải Phòng), Sơn Trà (Đà Nẵng) và Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu), trong 50 năm qua, mức nước biển trung bình dâng 3 - 4 mm/năm, nghĩa là gần nửa thế kỷ vừa qua, nước biển ở Việt Nam dâng lên khoảng 15 – 20 cm.
Theo kịch bản thấp, vào cuối thế kỷ 21, trung bình toàn dải ven biển Việt Nam, mực nước biển dâng khoảng 49 - 64cm.
Theo kịch bản trung bình, mực nước biển dâng sẽ ở mức 57-73cm, khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang là nơi có mực nước biển dâng nhiều hơn các khu vực khác.
Còn theo kịch bản cao, mực nước biển dâng sẽ lên tới mức 78 - 95cm, khu vực từ Cà Mau - Kiên Giang có mức tối đa đến 105cm.
![]() |
Khoảng 20% diện tích TP.HCM có thể bị ngập nếu nước biển dâng 1m. Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. |
Theo Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, nếu mực nước biển dâng 1m, sẽ có khoảng 39% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, trên 10% diện tích vùng đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh, trên 2,5% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung và trên 20% diện tích TP.HCM có nguy cơ bị ngập; Gần 35% dân số đồng bằng sông Cửu Long, trên 9% dân số đồng bằng sông Hồng, Quảng Ninh, gần 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung và khoảng 7% dân số TP.HCM bị ảnh hưởng trực tiếp; Trên 4% hệ thống đường sắt, trên 9% hệ thống quốc lộ và khoảng 12% hệ thống tỉnh lộ của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng.
Một hệ lụy của nước biển dâng là ngập lụt bất thường, lâu dài trên diện rộng và xâm nhập mặn.
Tại Việt Nam, ngập lụt ven bờ có nhiều nguyên nhân, do tác động của con người, do những nhiễu động bất thường về thời tiết và khí hậu cộng hưởng với sự dâng cao của mức nước biển tốc độ chậm nhưng dài kỳ.
Theo dự báo của Bộ Tài nguyên & Môi trường, hai đồng bằng châu thổ rộng lớn là sông Hồng và sông Cửu Long, nhiều vùng đất ven các cửa sông nhỏ, đầm phá, vũng vịnh và ven nhiều đảo cũng có nguy cơ ngập lụt cao, thậm chí ngập chìm nếu mực biển dâng cao thêm đến 1m.
Đặc biệt, ngập lụt đe dọa ngập chìm nhiều đảo san hô ở vùng quần đảoTrường Sa và Hoàng Sa; đe dọa các đô thị lớn ven bờ như: Hải Phòng, Hạ Long, Quy Nhơn, Cà Mau...
Ngập lụt các khu dân cư và đô thị kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực, gây ô nhiễm môi trường sống, tăng khả năng dịch bệnh, làm hư hỏng đường xá và các công trình xây dựng, làm nảy sinh những vấn đề phức tạp trong quy hoạch, cải tạo các khu dân cư và đô thị. Tình trạng ngập lụt ở các vùng đô thị và nông thôn khi mưa lớn trở thành thường xuyên, cần liên tục bơm thoát nước qua hệ thống đê bảo vệ kiên cố.
Ngoài ra, mực nước biển dâng cao còn dẫn đến hiện trạng truyền triều sâu vào lục địa và gây nhiễm mặn nguồn nước sông, điển hình trên hệ thống sông Mê Kông.
Sự dâng cao mực nước biển và biển lấn cũng sẽ gây xâm nhập mặn nguồn nước ngầm ven bờ và tại các thể cát ven các đảo, gây nhiễm mặn thẩm thấu các vùng đất nông nghiệp ven biển.