Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền, yêu cầu tàu Trung Quốc rút ngay khỏi EEZ
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng. |
Trong cuộc họp báo thường kỳ chiều 25/7, trả lời câu hỏi của phóng viên về vụ việc tàu khảo sát Hải Dương 8 vi phạm vùng biển của Việt Nam, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định, lô dầu khí 0601 mà Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Rosfnet của Nga phối hợp khai thác hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam.
“Về vụ việc nghiêm trọng này chúng tôi đã đề cập trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã được xác lập tại Công ước của LHQ về Luật Biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế”, bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.
Người phát ngôn cũng thông tin thêm, với mục tiêu trên, Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp như trao công hàm phản đối với phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay ra khỏi EEZ của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp đúng pháp luật.
Người phát ngôn khẳng định, duy trì hòa bình, ổn định đảm bảo tự do hàng không, hàng hải, đề cao thượng tôn pháp luật tôn trọng chủ quyền quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập ở Công ước Luật Biển của LHQ 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế.
Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hòa bình ổn định và hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Trước đó, ngày 19/7, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về phát biểu của Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 17/7 liên quan diễn biến ở khu vực Biển Đông, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết: "Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên”.
Việt Nam tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển chỉ xuất hiện từ khi UNCLOS ra đời, và các quốc gia ven biển phải chính thức tuyên bố mới được hưởng các quy chế pháp lý của vùng biển dài 200 hải lý tính từ đường cơ sở này. Việt Nam đã tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của mình vào ngày 12/5/1977, và cũng đã cụ thể hóa trong Luật Biển Việt Nam năm 2012. Như vậy, có thể thấy Việt Nam đã hoàn thành các nghĩa vụ pháp lý để có thể xác lập quyền chủ quyền và quyền tài phán tại vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Theo Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam có quyền chủ quyền (sovereign rights) đối với các hoạt động thuộc về khai thác tài nguyên thiên nhiên (từ động vật sống đến khoáng sản) tại khu vực biển đặc quyền kinh tế. Các quyền này là độc quyền; tức là không một quốc gia nào khác có thể thực hiện các hoạt động kể trên trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia, ngoài chính quốc gia đó, hoặc được quốc gia này cho phép. Tuy nhiên, các tàu thuyền của các quốc gia khác được tự do đi lại trong vùng biển này.
Ngoài ra, Việt Nam còn có quyền tài phán (jurisdiction) đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Theo đó, việc tiến hành nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế phải được sự cho phép của Việt Nam.
Tiếp đến, Việt Nam còn có quyền thực thi các hoạt động hành pháp và tư pháp như khám xét, điều tra, bắt giữ và tiến hành các hoạt động tố tụng mà Việt Nam cảm thấy là cần thiết để đảm bảo các quy định và pháp luật của mình phải được tuân thủ. Đây là các quyền tài phán mà công ước cho phép các quốc gia ven biển thực hiện để bảo vệ quyền chủ quyền của mình trong vùng đặc quyền kinh tế.