Tranh chấp đất đai: Hòa giải tại cơ sở trước khi khởi kiện ra Tòa
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.
Tranh chấp đất đai hiện đang là vấn đề gây nhức nhối trong xã hội. Vì đây là dạng tranh chấp đặc thù với tài sản có giá trị lớn nên các tranh chấp thường diễn ra trong thời gian dài gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống cá nhân, cộng đồng và xã hội.
Có nhiều trường hợp, hàng xóm láng giềng mâu thuẫn đất cát nhiều năm nhưng không tìm được tiếng nói chung.
Ví dụ, gia đình ông Nguyễn Văn A, hiện đang có tranh chấp đất đai với hộ gia đình hàng xóm bên cạnh trên thửa đất của gia đình. Việc tranh chấp đã xảy ra từ nhiều năm nay nhưng các bên không tìm được tiếng nói chung. Ông A. cho biết, gia đình ông đã sử dụng đất ổn định từ năm 1980 đến nay. Và ranh giới thửa đất không có thay đổi kể từ khi gia đình ông sử dụng thửa đất này. Năm 2010, gia đình hàng xóm sang nói chuyện với gia đình ông và yêu cầu trả lại khoảng 100m2 dọc theo ranh giới giữa hai gia đình. Ông Nguyễn Văn A không đồng ý vì đất gia đình ông sử dụng ổn định và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1999, còn gia đình hàng xóm được cấp năm 2004.
Đầu năm 2020, ông có viết đơn đề nghị UBND xã tiến hành hòa giải. Tuy nhiên, khi ông nộp đơn đến UBND xã thì xã trả lại đơn và yêu cầu phải hòa giải tại thôn/xóm trước.
Điều ông A. thắc mắc việc, UBND xã trả lại đơn và yêu cầu hòa giải tại thôn xóm có đúng không?
Liên quan đến trường hợp này, luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Trưởng Phòng Tranh Tụng - Công ty Luật TNHH TGS (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội) giải thích, việc hòa giải tranh chấp đất đai được quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 202 quy định “1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.” Như vậy có thể thấy việc hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở được nhà nước khuyến khích. Một phần bởi lý do những người tại cơ sở có thể nắm bắt được ít nhiều về nguồn gốc sử dụng đất và quá trình sử dụng đất của một trong các bên tranh chấp hoặc các bên tranh chấp.
Tại khoản 2 Điều 202 quy định “2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.” Theo như chia sẻ của bạn độc giả thì một trong các bên trước khi gửi đơn đến UBND xã đề nghị hòa giải thì đã chủ động gặp mặt nói chuyện với nhau nhiều lần nhưng không tìm được tiếng nói chung. Như vậy, một trong các bên có quyền gửi đơn đề nghị đến UBND cấp xã nơi có thửa đất tranh chấp đề nghị hòa giải theo quy định của pháp luật.
Theo luật sư Hùng, việc gia đình ông Nguyễn Văn A. gừi đơn đề nghị hòa giải đến UBND cấp xã nhưng bị từ chối với lý do chưa hòa giải tại thôn/xóm trước là không đúng quy định của pháp luật. Trường hợp này, gia đình ông A có thể khiếu nại hành vi trên của UBND xã theo Luật Khiếu nại năm 2011.
Về thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND, luật sư Nguyễn Đức Hùng thông tin: Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai được hướng dẫn tại Điều 88 Nghị định số 43/2014 và được sửa đổi bởi Nghị định số 01/2017.
Khi nhận được đơn đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai của một trong các bên thì UBND cấp xã nơi có thửa đất tiến hành việc hòa giải như sau:
Một, thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất;
Hai, thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành.
Luật sư Hùng cho biết, kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, gồm có các nội dung: Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải; thành phần tham dự hòa giải; tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp (theo kết quả xác minh, tìm hiểu); ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai; những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận, không thỏa thuận.
Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các bên tranh chấp có ý kiến bằng văn bản khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải quyết đối với ý kiến bổ sung và phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành.
Trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới sử dụng đất, chủ sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải thành đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định tại Khoản 5 Điều 202 của Luật Đất đai.
Trường hợp hòa giải không thành hoặc sau khi hòa giải thành mà có ít nhất một trong các bên thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo.
Thời hạn tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai là không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp.
Như vậy, thủ tục hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất tại UBND cấp xã nơi có thửa đất tranh chấp là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết. Sau khi UBND cấp xã tiến hành hòa giải mà kết quả không thành thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết được quy định tại Điều 203 Luật Đất đai 2013 là UBND cấp cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện vụ án tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
Khi các bên giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền cần xác định trường hợp bắt buộc phải hòa giải tại UBND cấp xã là điều kiện bắt buộc trước khi tòa án thụ lý vụ án.
“Tại Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn những tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất thì hòa giải tại UBND cấp xã là một điều kiện để thụ lý vụ án. Tuy nhiên, đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án”- luật sư Hùng nói.
Đất đai là một tài sản có giá trị lớn và liên quan đến nguồn gốc đất có nhiều phức tạp cũng như sự điều chỉnh của pháp luật qua các thời kỳ có sự thay đổi nên khi các bên tiến hành giao dịch liên quan đến đất đai hoặc phát sinh tranh chấp, nên có sự tham vấn của luật sư để hạn chế rủi ro dẫn đến thiệt hại về vật chất và thời gian.
Theo vov.vn