Tổng thư ký NATO tiết lộ kế hoạch tân trang "siêu lớn" cho hạm đội máy bay AWACS
Công nghệ mới nhất bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ được sử dụng để thực hiện kế hoạch này.
Máy bay Boeing E-3 “Sentry” AWACS. Ảnh: RIA |
“Chúng tôi dự định thay thế nó vào năm 2035 bằng nhiều công nghệ mà chúng ta đang nói đến hôm nay, như hệ thống độc lập, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn (Big data)”, Tổng thư ký nói.
Chương trình giám sát không phận AWACS của NATO đã bắt đầu hoạt động từ năm 1982. AWACS là hệ thống radar được thiết kế, lắp đặt trên máy bay. AWACS có nhiệm vụ chính là phát hiện và cảnh báo các máy bay của đối phương, chỉ huy và phối hợp tác chiến giữa các máy bay chiến đấu. Các máy bay AWACS hiện đại có khả năng phát hiện máy bay từ khoảng cách 400 km - 650 km, có thể bao quát một khu vực rộng tới 300.000 km2.
Máy bay Boeing E-3 “Sentry” AWACS là một trong số những AWACS tiêu biểu hiện nay. Số lượng 63 chiếc máy bay cảnh báo sớm trên không E-3 “Sentry” của Hãng Boeing sử dụng chụp radar trên phần thân không giống đa phần các loại máy bay dự cảnh khác, trong đó có 1 radar giám sát loại APY-1 hoặc APY-2 của Northrop Grumman.
Loại máy bay này được sử dụng trong lực lượng không quân Mỹ với số lượng 31 chiếc, không quân Pháp, Saudi Arabia và Anh có tổng cộng 15 chiếc. Ngoài ra, một số nước khác là thành viên của NATO cũng sở hữu tổng cộng 17 chiếc. E-3 “Sentry” có tốc độ tối đa 855 km/h, tầm bay 7.400 km, khả năng phát hiện mục tiêu đến 650 km.