Sếp PwC vạch rõ 5 bước quản lý rủi ro với ngân hàng giữa vòng xoáy lợi nhuận
Trong một tuần của tháng 3, ba Ngân hàng tại Mỹ đã giải thể bao gồm cả tự nguyện cũng như theo yêu cầu của Chính phủ.
Tiếp sau các sự kiện này, Bộ Tài chính Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang của Mỹ (FDIC) đã ra thông báo chung về việc tất cả các khách hàng gửi tiền tại Silicon Valley Bank và Signature Bank sẽ được đảm bảo nhờ việc vận dụng ngoại lệ với lý do khắc phục rủi ro có tính hệ thống, theo đó cho phép các khoản tiền gửi khách hàng lớn vốn không được bảo hiểm tiền gửi sẽ vẫn được đảm bảo.
Fed cũng tạo ra Chương trình Tài trợ Kỳ hạn Ngân hàng cung cấp các khoản vay tới 1 năm cho các ngân hàng có sử dụng tài sản thế chấp là Trái phiếu chính phủ, chứng khoán có đảm bảo bởi các khoản vay mua nhà, và các tài sản sản đảm bảo có giá trị, tất cả được định giá theo mệnh giá ban đầu. Bản công bố Bảng cân đối kế toán gần đây nhất của Fed thể hiện một khoản mục tăng thêm 297 tỷ USD, chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn. Các ngân hàng đã vay khoảng 12 tỷ USD từ Chương trình Tài trợ Kỳ hạn Ngân hàng mới của Fed và 152 tỷ USD từ Phòng cho vay chiết khấu của Fed, trong khi các ngân hàng bắc cầu (bridge banks) do FDIC thành lập đã vay 142 tỷ USD từ Fed .
Quản lý Bảng cân đối kế toán trong môi trường lãi suất gia tăng
Ngay sau những đổ vỡ gần đây trong khu vực ngân hàng, nhiều người đang công khai đặt câu hỏi nguyên nhân gì có thể khiến một ngân hàng phải phá sản, tự nguyện hoặc bắt buộc theo quyết định của chính phủ. Thoạt nhìn, đây có thể là những sự cố riêng lẻ liên quan đến những ngân hàng tập trung vào các ngành kinh tế đặc thù. Tuy nhiên, những đổ vỡ đó thực tế đã minh chứng cho tầm quan trọng của thông lệ quản lý Bảng cân đối kế toán, rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất nhằm đảm bảo hiệu quả của thông lệ này trong điều kiện kinh tế đầy thách thức và bất ổn.
Hai năm đầu tiên của đại dịch Covid-19 đã cho thấy mức gia tăng kỷ lục về danh mục tiền gửi khi các cá nhân và doanh nghiệp cắt giảm đáng kể chi tiêu, tăng tiết kiệm và nhận được các khoản hỗ trợ của chính phủ.
Nhiều ngân hàng đã tìm cách tăng thu nhập từ lãi bằng cách đầu tư các khoản tiền gửi vào danh mục chứng khoán đầu tư, đặc biệt là do việc chi tiêu của cá nhân và doanh nghiệp giảm sút trong thời kỳ Covid-19 đã hạn chế nhu cầu vay vốn.
Các loại chứng khoán đầu tư được lựa chọn phổ biến là các công cụ nợ chất lượng cao, được chính phủ bảo đảm, không yêu cầu dự trữ vốn dựa trên rủi ro và có thể được sử dụng để tạo thanh khoản trong trường hợp căng thẳng. Tuy nhiên, chứng khoán đầu tư rất nhạy cảm với những thay đổi về lãi suất.
So với đầu năm 2022, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất cơ bản lên hơn 4,5%. Điều này làm giảm đáng kể giá trị của các loại chứng khoán đầu tư này và tạo ra “các khoản lỗ chưa thực hiện” trên Bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Những đợt tăng lãi suất của Fed cũng đã thúc đẩy khách hàng của ngân hàng chuyển tiền gửi của họ sang các sản phẩm khác như Quỹ thị trường tiền tệ để tìm kiếm lợi suất cao hơn.
Biến động này cũng như việc khách hàng tăng chi tiêu lượng tiền mặt đã tích lũy trong thời kỳ đại dịch Covid-19 đã dẫn đến đỉnh điểm là nhiều ngân hàng bị mất nguồn thanh khoản.
Giá trị của danh mục đầu tư bị giảm sút cộng với áp lực gia tăng do sụt giảm lượng tiền gửi đã đặt ra thách thức đối với việc quản lý rủi ro thanh khoản, đặc biệt là khi phải bán cắt lỗ chứng khoán đầu tư với lợi suất thấp hơn để bù đắp thanh khoản đối phó với việc sụt giảm nguồn huy động.
Rủi ro thanh khoản tăng cao khi cơ sở tiền gửi của một ngân hàng bao gồm tiền gửi khách hàng giá trị lớn, tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi nhạy cảm với lãi suất. Bảng cân đối kế toán mất cân đối giữa một bên là trái phiếu có kỳ hạn dài như trái phiếu kho bạc, các khoản cho vay đảm bảo bằng tài sản thế chấp do cơ quan chính phủ cấp so với bên kia là số dư tiền gửi không ổn định đã bộc lộ một vấn đề kinh điển trong quản lý rủi ro ngân hàng, chính là trạng thái mất cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ.
Các ngân hàng thường đo lường trạng thái mất cân đối này và xác lập hạn mức để kiểm soát rủi ro, nhưng những hạn mức này không phải lúc nào cũng được quản lý hiệu quả, bởi vì các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro (hedging) cũng phát sinh chi phí và việc không tiến hành hedging cũng dẫn tới tổn thất, đều làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Sang đến năm 2023, sự sụt giảm lượng tiền gửi đã được coi là mối lo ngại ngày càng cao trong toàn ngành ngân hàng sau khi Fed xem xét tiếp tục tăng lãi suất. Những sự cố gần đây cho thấy tác động nghiêm trọng tiềm tàng do sự sụt giảm lượng tiền gửi gia tăng, vượt quá mức dự trữ thanh khoản hiện tại, được nắm giữ dưới dạng tiền mặt và chứng khoán có thanh khoản cao đang bị giảm giá trị, và do đó đã làm nổi lên nhu cầu buộc tất cả các ngân hàng phải liên tục thẩm định và điều chỉnh thông lệ quản lý rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất của mình.
Ngân hàng có thể quản lý trạng thái căng thẳng trên Bảng cân đối kế toán bằng cách nào?
1. Giám sát thanh khoản và kiểm tra sức chịu đựng
Chủ động giám sát và dự báo biến động tiền mặt hàng ngày, tập trung vào các phân khúc như tiền gửi giá trị lớn, tiền gửi không được bảo hiểm và hạn mức tín dụng
Tăng cường các kịch bản và tần suất kiểm tra căng thẳng, hiểu rõ các loại rủi ro tập trung và mối liên hệ giữa thanh khoản và vốn bằng cách sử dụng nhiều kịch bản khác nhau (ví dụ: điều kiện tín dụng xấu đi, kịch bản “nền kinh tế đình trệ do lạm phát cao” và các động thái tiềm tàng của chính sách lãi suất của NHTW)
Xem xét lại các tác động về thanh khoản do khả năng xảy ra tổn thất tiền gửi từ các khoản tiền gửi kém ổn định và các giả định đối với tiền gửi không được bảo hiểm.
2. Chiến lược tiền gửi
Nhận diện những khách hàng "có rủi ro" (nghĩa là có các khoản dư nợ tiền gửi mà khách hàng được toàn quyền tất toán, có nhiều khả năng sẽ được chuyển sang kênh đầu tư khác an toàn hơn) bằng cách phân tích độ co giãn theo giá, bề dày của mối quan hệ khách hàng và các diễn biến thầm lặng khác gây ra mất khách hàng gửi tiền
Trọng tâm vào việc giữ chân các khách hàng có số dư tiền gửi cao hơn không được bảo hiểm và thuyết phục các khách hàng đó về độ lành mạnh tài chính của ngân hàng mình
Triển khai các biện pháp mục tiêu đối với những khách hàng này thông qua định giá tiền gửi phù hợp dựa trên mối quan hệ và nâng vị thế của mối quan hệ khách hàng lên cao nhất bằng cách cung cấp thêm dịch vụ quản lý ngân quỹ, thẻ và các dịch vụ chuyển tiền khác
Khởi động các chiến lược thu hút khách hàng mới thông qua chi nhánh, chuyên viên quản lý quan hệ khách hàng và các kênh số
3. Nguồn vốn dự phòng
Đánh giá và kiểm thử các quy trình vận hành, nguồn lực và hệ thống để xác nhận chắc chắn rằng các yếu tố đó sẵn sàng để triển khai các biện pháp hành động cần thiết để tăng dư phòng thanh khoản bằng cách thực hiện các diễn tập mô phỏng sự cố thanh khoản với sự tham gia của ban lãnh đạo cấp cao để họ nắm vững các nghiệp vụ có thể cần áp dụng, bao gồm trao đổi thông tin với các bên liên quan nội bộ và bên ngoài
Rà soát mức độ thanh khoản của các khoản đầu tư, đảm bảo không gặp vướng mắc về pháp lý, quy định hay nghiệp vụ, có thể được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản
4. Kế hoạch truyền thông
Đánh giá các kế hoạch truyền thông cho nhà đầu tư và người gửi tiền, chú trọng vào cách thức để khôi phục và củng cố niềm tin cho các bên liên quan một cách thận trọng rằng trạng thái thanh khoản và tài chính của ngân hàng là lành mạnh
Soạn lập báo cáo về nhiều kịch bản và tác nhân gây khủng hoảng căng thẳng có thể có, bao gồm tác động tiềm tàng của mạng xã hội
5. Quản lý Tài sản có-Tài sản nợ
Đánh giá chiến lược quản lý rủi ro lãi suất bằng cách sử dụng các thước đo như kỳ hạn, giá trị kinh tế của vốn chủ sở hữu và độ nhạy cảm của thu nhập và xem xét lại các quyết định về khẩu vị rủi ro, khả năng chấp nhận rủi ro so với hệ thống phòng ngừa rủi ro
Nâng cao mô hình rủi ro lãi suất để bao gồm các kịch bản kiểm thử các giả định biến động khác nhau của bảng cân đối kế toán, bao gồm các khoản tiền gửi mới, tăng nhanh nhưng có thể kém ổn định hơn so với khách hàng gửi tiền hiện có.
Diễn biến tiếp theo sẽ là gì?
Xem xét bài học từ những đổ vỡ Ngân hàng tại Mỹ gần đây, trong bối cảnh sự bất ổn đối với cả ngành ngân hàng và nền kinh tế quốc tế vẫn đang tiếp tục diễn ra, chúng tôi để xuất các Ngân hàng cần theo dõi chặt chẽ các bình diện sau:
Bảng cân đối kế toán của ngân hàng, doanh nghiệp và doanh nghiệp hộ gia đình. Tín dụng tiêu dùng và doanh nghiệp sau đại dịch đã và sẽ tăng lên, tăng trưởng tín dụng tăng tốc sẽ gây áp lực lên sự gia tăng dự phòng rủi ro tín dụng.
Tiền gửi sẽ chịu thêm áp lực trong môi trường lãi suất tiếp tục cao, và khi một số ngân hàng hoặc tổ chức tài chính cơ hội đang áp dụng chiến lược thu hút tiền gửi quyết liệt.
Trong khi đó, một số tài sản dài hạn trước đây được mua vào với lãi suất thấp hơn hiện tỷ suất lợi tức thị trường hiện thời, và rủi ro tín dụng liên quan đến các khoản vay thương mại và công nghiệp có đòn bẩy vẫn còn cao. Các Ngân hàng cần xem xét những biến động này ảnh hưởng như thế nào đến bảng cân đối kế toán của ngân hàng và có thể sẽ thúc giục các ngân hàng phải thay đổi chiến lược nguồn vốn của mình.
Lợi suất và khối lượng trái phiếu. Khối lượng và lợi suất giao dịch trái phiếu có thể là những chỉ báo hàng đầu làm ảnh hưởng đến nhu cầu tạo thanh khoản của ngân hàng.
Phản ứng của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý nhà nước. Các quyết sách của ngân hàng trung ương về chính sách lãi suất sẽ ảnh hưởng lớn tới cường độ của các thách thức thanh khoản đặt ra.
Môi trường hiện tại cho thấy những rủi ro đáng quan ngại nhưng cũng bộc lộ những cơ hội lớn cho các ngân hàng có bảng cân đối kế toán có tính thanh khoản cao và chiến lược tăng trưởng bền vững, thấu đáo. Các ngân hàng cần xem xét những cơ sở thúc đẩy sự ổn định của khách hàng gửi tiền, tăng cường thực thi các chuẩn mực quản lý bảng cân đối kế toán thận trọng, đồng thời cũng cần đánh giá các đòn bẩy lợi nhuận tổng thể, bao gồm chiến lược khách hàng, danh mục sản phẩm và chi phí.
Trong khi những bất ổn của ngành Ngân hàng quốc tế vẫn đang tiếp diễn ở mức độ cao, và tình hình Ngành ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ củng cố bảng cân đối kế toán sau các tác động của các sự cố trái phiếu doanh nghiệp gần đây, chúng tôi cho rằng sự tự mãn hay chờ đợi không hành động không phải là chiến lược để thành công.
Đinh Hồng Hạnh, Phó Tổng Giám đốc PwC Việt Nam