Quan hệ Trung Quốc - Philippines "dậy sóng" vì Biển Đông
Kể từ khi chiếm đóng mỏm đá Vành Khăn (Việt Nam) vào năm 1994-1995 và chiếm bãi cạn Scarborough vào tháng 4 năm 2012, Trung Quốc chưa rút lui dù chỉ 1 cm khỏi khu vực mà nước này chiếm đóng đồng thời cũng không xin lỗi về hành vi của mình.
![]() |
Người dân Philippines biểu tình phản đối Trung Quốc khi tàu hai nước đối đầu nhau tại bãi cạn Scarborough trên Biển Đông hồi tháng 4. |
Bất chấp các cuộc biểu tình nổ ra liên tiếp ở Manila (Philippines), Bắc Kinh vẫn đẩy mạnh tuyên bố chủ quyền và chuyển luận điệu của mình theo hướng đối đầu.
Khi Philippines chủ trì một hội nghị thượng đỉnh và khởi động vấn đề Bộ qui tắc ứng xử trên biển vào năm 2002, mở ra con đường ngoại giao để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông thì Trung Quốc và các thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã kí kết vào văn bản lịch sử này.
Và khi Philippines tiếp tục hoạt động thăm dò khai thác các mỏ khí tự nhiên Camago-Malampaya với trữ lượng ước tính khoảng từ 2,3 nghìn tỷ m3 – 4,4 nghìn tỷ m3 thì Bắc Kinh cũng không hề phản đối.
Nhưng đến năm 2009 thì Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền với cái gọi là “đường 9 đoạn” chiếm gần như toàn bộ Biển Đông. “Đường 9 đoạn” của Trung Quốc bao gồm cả bãi Cỏ Rong nơi Philippines đang tiến hành thăm dò dầu khí.
Vào tháng 11 năm 2012 khi Bộ Ngoại giao Philippines phản đối quyết định của Bắc Kinh in “đường 9 đoạn” lên hộ chiếu mới và các quan chức xuất nhập cảnh Philippines sẽ đóng dấu thị thực lên một tờ giấy riêng biệt thì Trung Quốc đáp trả bằng tuyên bố rằng nước này sẽ đầu tư hơn 10 tỷ nhân dân tệ (1,6 tỷ USD) để xây dựng cơ sở hạ tầng trên các hòn đảo đang tranh chấp trên Biển Đông.
Tờ Người đưa tin thế kỷ 21 (Quảng Châu, Trung Quốc) cho biết Trung Quốc sẽ xây dựng sân bay, cầu tàu và các cơ sở hạ tầng khác trên những quần đảo thuộc cái mà nước này gọi là “Thành phố Tam Sa”.
Sau đó Bắc Kinh tuyên bố cảnh sát biển tỉnh Hải Nam tìm kiếm các con tàu xâm nhập “phi pháp” vào khu vực mà Trung Quốc coi là lãnh hải của mình trên Biển Đông. Điều đó có nghĩa là cảnh sát tỉnh này được tự do lên tàu, lục soát, bắt giữ, tịch thu, chặn hay trục xuất các tàu nước ngoài có dấu hiệu vi phạm “luật” ngoài khơi đảo Hải Nam.
Tờ Trung Quốc nhật báo (China Daily) cho biết luật lệ mới sẽ có hiệu lực từ tháng 1 này.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines Raul Hernandez phát biểu rằng động thái điều tàu Hải tuần 21, một con tàu tuần tra có đường băng lên thẳng, ra Biển Đông là hành động trái ngược với nghĩa vụ của Trung Quốc theo luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển (UNCLOS).
“Philippines cực lực phản đối Trung Quốc tuần tra tại vùng lãnh hải của Philippines trên biển Tây Philippines (Biển Đông)”, ông Hernandez nói.
Sau đó 1 tuần, Bộ Ngoại giao Philippines lại một lần nữa yêu cầu Bắc Kinh làm rõ phạm vi của “luật” đối với tàu nước ngoài nói trên. Nhưng bất chấp những nỗ lực đó của Philippines, Trung Quốc vẫn không đáp lại lời nào.
Những quốc gia không tham gia tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông như Hoa Kỳ, Ấn Độ và Liên minh châu Âu thì bày tỏ lo ngại về điều luật này xét về tác động của điều luật đối với tự do đi lại trên biển trong khi Biển Đông là một tuyến đường hàng hải vô cùng quan trọng của thế giới.
Trả lời phỏng vấn tờ Thời báo New York (New York Times – Mỹ), ông Wu Shicun, giám đốc Sở ngoại vụ Hải Nam cho biết các tàu Trung Quốc được phép tìm kiếm và trục xuất các tàu nước ngoài chỉ khi nào các tàu đó thực hiện các hành động phi pháp và chỉ khi các tàu đó nằm vào 12 hải lý quanh các hòn đảo mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền.
Theo ông Wu, điều khiến các nước bên ngoài khu vực lo ngại là sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc và coi điều luật này ám chỉ khả năng nước này sẽ chiếm các hòn đảo trên Biển Đông bằng vũ lực.
Trên tạp chí Chính sách ngoại giao (Foreign Policy), tác giả Michael Austin có bài viết với tiêu đề “Trung Quốc có tham chiến vào tháng 1 năm 2013 không?”
Tác giả Austin nêu ra câu hỏi này sau khi nhận thấy rằng 4 ngày sau khi Trung Quốc cho cả thế giới chứng kiến nước này lần đầu tiên cất cánh thành công chiến đấu cơ từ tàu sân bay thì Bắc Kinh đã nâng cấp một đơn vị hải quân nhỏ trở thành một đơn vị đồn trú để “phủ” hoạt động lên hết Biển Đông.
“Tuy nhiên, sự tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc không thể vượt qua ranh giới đỏ là tự do đi lại trên biển”, ông nói.
Theo ông Austin, nếu Bắc Kinh quá tự tin cho rằng phần còn lại của thế giới sẽ không đứng lên chống lại sự bành trướng quyền lực dần dần của Trung Quốc ở châu Á thì có thể niềm tin đó sẽ được đưa vào thử thách.
Ông cho rằng cho tới vài năm trở lại đây, các học giả của Washington vẫn bám vào ý tưởng về “nền an ninh tại những khu vực chung toàn cầu” nhằm “đạp lại những tiếng nói lo ngại rằng Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh, đủ sức dịch chuyển cán cân quyền lực ở các vùng biển châu Á theo hướng có lợi cho mình”.
Nhưng giáo sư chính trị học David Arase tại Đại học Pomona và Trung tâm Hopkins- Nanjing thuộc Đại học Nanjing cho rằng: “Vấn đề là cả hai bên đang tiến sát tới ranh giới đỏ được vạch ra và vì thế khả năng xảy ra sai sót là rất cao”.
![]() |
Trong khi “hùng hổ khoan cọc” nhiều khu vực chính trên Biển Đông và gọi đó là lãnh thổ của mình thì Bắc Kinh cũng tuyên bố nước này sẽ chỉ thương lượng với từng quốc gia một, một lập trường mà rõ ràng sẽ giúp Trung Quốc có lợi thế hơn trong cuộc thương lượng với các quốc gia nhỏ bé hơn.
“Điều đáng lo ngại là ngày càng có nguy cơ xảy ra một cuộc xung đột quân sự nhỏ trên Biển Đông”, chuyên gia Ian Storey từ Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore, nhận xét.
Còn chuyên gia James Holmes từ Đại học chiến tranh hải quân Hoa Kỳ thì cho rằng điều đáng ngạc nhiên là Trung Quốc đã xoay xở để mở rộng tuyên bố chủ quyền của mình mà vẫn chưa trở thành một kẻ đi bắt nạt nước khác.
Trong khi đó, một chuyên gia khác thì nhìn nhận thấy một nguy cơ lớn hơn rất nhiều.
“Nếu Trung Quốc tiếp tục đi con đường hiện nay thì có vẻ là nước này sẵn sàng quân sự hóa toàn bộ vấn đề Biển Đông”, Dean Cheng, chuyên gia về chính sách ngoại giao và quân sự Trung Quốc của Quỹ Heritage, nói.
Ông Cheng cũng cho rằng có một khả năng khác là các chính sách cứng rắn hiện nay của Bắc Kinh bắt nguồn từ việc chuyển giao quyền lực 10 năm một lần của nước này.
“Một khi các lãnh đạo như Tập Cận Bình, Lý Khắc Cường và các nhà lãnh đạo khác đã ổn định vị thế quyền lực của mình trong giai đoạn 2013-2014 thì họ sẽ tập trung vào các vấn đề trong nước và sẽ có lập trường bớt cứng rắn hơn trong quan hệ ngoại giao”, ông Cheng bình luận.
Theo ông Cheng, trong trường hợp đó thì có khả năng Trung Quốc sẽ có thái độ hòa giải hơn.