Đêm chiếm lĩnh cuối cùng
Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc lập. (Ảnh tư liệu) |
Vùng đất Củ Chi đã trơ trọi bao lâu rồi, ven sông là những vạt cây lúp xúp, cỏ lau phơ phất. Trong khi mấy trung đoàn dải quân từ bến Dược trở xuôi. Chúng tôi đào hầm qua loa, vén lá lau sậy ra làm ổ, chui vào gầm tán những cây ổi ven nước mà nằm mà họp mà chuẩn bị cho trận đánh sắp tới.
D bộ (Tiểu đoàn Bộ) ở sát ngay một cái chòi lấn ra sông dưới tán những cây găng rậm rịt. Một tổ giao thông bưu điện Củ Chi. Ở đó luôn thấy một người phụ nữ còn trẻ mắt cứ nhìn đăm đắm ra sông.
Mặt sông lốm đốm những đám lục bình trôi, mấy chùm hoa tím chĩa lên trời, sóng sông lòm tom như cá quẫy. Chưa bao giờ tôi thấy chị nói, chị nhìn đoàn quân ào ạt trẻ trung mà cứ như kẻ mộng du, rồi lại nhìn ra sông. Cứ thế người đàn bà ở bến Đình Củ chi như một “hòn Vọng phu” búi tóc.
Hết họp rồi hạ quyết tâm tiểu đoàn, đại đội, quyết tâm trung đội, quyết tâm tiểu đội. Từ đầu chiến dịch tới giờ đây là những ngày nhàn nhã nhất. Không phải đi lấy gạo, vác đạn, ngoại trừ nhóm chúng tôi hai ngày bò Tân Phú Trung rồi trở về vẽ sơ đồ với cán bộ tiểu đoàn. Sa bàn cũng không đắp, chỉ theo bản vẽ tay, rồi bản đồ địa hình của trinh sát nằm vùng đưa ra mà họp mà hạ quyết tâm. Rõ là thế của kẻ mạnh.
Nắng cả ngày rồi chiều thì mưa. Cơn mưa chiều nào ở đây cũng to và thật nhanh. Một tuần nay chúng tôi đã quen như thế. Ba lô cứ gói buộc sẵn sàng chỉ để tấm ni lông lên trên cùng. Súng cứ lau đi lau lại, dép cứ nắn đi nắn lại từng quai, vuốt ve cái dây ba lô mòn bóng nhem nhẻm mồ hôi. Tựa lưng vào ba lô mà trò chuyện. Có anh đọc đi đọc lại lá thư nhà mà giao liên đưa đuổi theo ở Chơn Thành.
Ngắm nhìn những khuôn mặt đồng đội trước lúc vào trận sao mà thấy ai cũng trẻ, khuôn mặt nào cũng bâng khuâng, cũng hiền… đến lạ. Đã bao lần trước lúc vào tiếp cận nhưng tôi đâu có để ý như bây giờ.
Có lẽ bởi những trận đánh ở Tây nguyên bất thình lình hoặc do rừng rú, đêm tối hay những lúc mùa mưa thâm xám trời đất chả có thời gian đâu mà để ý. Chỉ biết gập mình dò dẫm, bò tườn trong đêm. Còn bây giờ, giữa vùng bình địa gần sát đô thành này mọi khuôn mặt vào trận nó mới sáng trưng ra dưới hàng ngàn đồng đội.
Suốt cả mấy ngày nay pháo ta và địch bắn đối nhau ầm ầm. Cái thứ tiếng xèo xèo bay ngược chiều nhau. Pháo từ Đồng Dù bắn ra, từ thành Quan năm Hóc Môn, từ Ngã ba Tân Qui đồng loạt nã về.
Trái phá nổ trên ngọn đồi có cửa hầm địa đạo, nổ dưới sông, nổ phía bên kia sông. Cột nước tóe trắng hắt ngược những cụm lục bình lên trời, hoa lục bình tím bay lả tả hòa vào mặt sông.
Chiều nay 28/4/75. Mặt trời thật vàng, trôi thật chậm. Tiểu đoàn ắng lặng. Chúng tôi ngồi ôm cái ba lô đã mấy tiếng đồng hồ. Lính cũ thì gà gật, lính mới thì phấp phỏng cứ nhìn các đàn anh như dò hỏi: Thế nào là thế nào rồi hở anh?
4 giờ, thấy đơn vị biệt động thành hành quân qua. Trẻ quá, nhiều con gái quá. Lại xinh nữa, lại lung liếng mắt nhìn các anh chủ lực đang há mồm nhìn theo những bắp chân trắng cứa đỏ bởi dây dép cao su.
Mặt trời khuất hẳn, lệnh hành quân.
Cả ngàn người bám vào nhau. Chưa có cuộc chiếm lĩnh nào chúng tôi bám xít nhau như thế. Một cuộc hành quân chiếm lĩnh rộn rực trong lòng đến vậy. Hơi thở người đằng sau phả vào gáy người đi trước. Tôi vượt lên đầu tiểu đoàn để nhận một nữ biệt động dẫn đường. Chúng tôi trao đổi ngắn gọn về hướng hành quân và chỉ kịp nhận ra cô còn trẻ nhưng chắc lẳn với cái tên Mỹ Hạnh.
Phía đông nam là một quầng sáng lung linh. Phía tây cột lửa đỏ bốc cao ngùn ngụt. Kho xăng Đồng dù bị pháo kích lúc chập chiều đang ù ù cháy. Nóng, ngột ngạt những mồ hôi và thì thầm của lính.
Pháo bất thần nổ. Đội hình phía sau tôi ùn lại, một chiến sĩ trinh sát quay lại rồi chạy lên. D7 hi sinh 3 bị thương 4. Trung đoàn lệnh hành quân khẩn trương. Một con mương sâu rộng chừng 15 mét. bộ đội ào xuống, phì phò ì ọp khúc khích cười.
Rồi có tiếng: chết đuối rồi! chết thằng Dìn rồi. Mỹ Hạnh quay ngoắt lại trong mập mờ đêm, nhoáng cái lôi chàng Dìn vào bờ. Chúng nó hỏi mày không biết bơi à? em không biết. Hinh hích hinh hích lính ta cười. Mỹ Hạnh càu nhàu, đồng đội chết ỉm đến cổ còn húm vào cười. Lính ta chả ai nói gì.
Các chiến sỹ của Quân đoàn 3 đánh chiến sân bay Tân Sơn Nhất trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. (Ảnh tư liệu) |
Vượt qua đường 8 đoạn Phước Vĩnh An. Cái đồn địch bắn đạn 12,8 ly đỏ lừ lừ cành cành cành. Chó sủa râm ran. Mặc, chúng tôi cứ nhắm Cầu Bông mà lội tới. Mùi bùn, mùi lúa con gái ngai ngái trong đêm. Lính hỏa lực ì ọp ngã lên ngã xuống. Bờ ruộng thì nhỏ bùn lại trơn, tôi bảo Mỹ Hạnh, tôi chiếu bản đồ Hạnh dẫn bộ đội lội trên lúa. Hạnh cự, nát lúa uổng lắm. Tôi gắt, không thể để chậm giờ vào chiếm lĩnh. Truyền lại lội ruộng theo trinh sát. Thế là hàng mấy trăm người bì bõm dưới ruộng, rồi leo lên ruộng cạn rồi lại xuống nước. Cứ thế chúng tôi vòng qua cánh đồng rìa làng Tân Thông Hội, xuống Tân Phú Trung.
Một giờ sáng, trăng bất thần nhú ra. Cả đội hình đến cánh đồng trồng dưa của dân Tân Phú. Bàn nhau, làm mấy quả đi. Lập tức bị Mỹ Hạnh phản ứng: Đi làm cách mạng mà ăn trộm của dân à?
Tôi đưa cho hạnh gói lương khô. Mỹ Hạnh mừng quá ăn ngay, vừa ăn vừa nói: Lương khô chủ lực ngon quá trời. Tôi bảo mỗi trận đánh chỉ được một gói thôi. Hạnh ăn rồi anh phải ăn dưa thôi. Cô biệt động kêu trời, rằng bộ đội lừa nhân dân. Chúng tôi cười khoái trá và bổ dưa ăn.
Đội hình lên đủ để bộ đội tập hợp lực lượng ngoài đồng, chúng tôi bò vào trận địa với tham mưu trưởng trung đoàn lần nữa.Trăng sáng mới chết chứ.
Cánh đồng gần ấp Chợ đầy rau mùi và hành. Nhắc nhau cẩn thận đừng dẵm lên luống mùi và hành sực mùi lên bọn lính gác nó phát hiện. Lúc bò qua một vườn cam và chanh, sờ thấy có quả nhưng không dám ngắt định bụng quay ra vặt mấy quả. Đêm đầu tiên chiếm lĩnh một trận địa ven đô, bồi hồi lạ lắm.
Mùi của cánh đồng lúa đang kì trổ đòng, mùi bùn ruộng lẫn trong mùi phân của trâu bò. Mùi mồ hôi của lính và lại là lần đầu tiên đi cùng một cô gái, rất gần rất nhẹ nhàng là hương tóc con gái cứ phảng phất đâu đây. Đêm chiếm lĩnh, lội đồng rồi chui lên vườn tược ngửi thấy, cảm nhận thấy những mùi vị có tên chung, nhưng cũng có mùi mang cái tên riêng chỉ người cảm nhận nó đặt tên được. Chúng tôi nhìn về Tân Sơn Nhất đèn đỏ nhấp nháy trên cao, chịu chả biết là gì.
Những cái máy bay bay đêm lên xuống, đại bác 130 ly của ta vẫn cầm canh bắn vào phía ấy. Ra sát đường thấy có cái gì to và lóa lóa trắng, mò lại gần thấy thằng tây đen nhe răng trắng ởn, bảo nhau lùi thôi ẹ biết là gì, lát nữa bảo DK phang vào đấy. Thằng Minh thì thầm qué phải hỏa điểm gì đâu, thuốc đánh răng đấy.
Đưa các đại đội vào chiếm lĩnh xong xuôi, không gian nén lại, thời gian trôi thật chậm. Sở chỉ huy ở ngoài đồng trên một con mương ken dầy những cây bằng lăng. Nhìn lên đường số một từ hướng Tây Ninh về Sài Gòn thỉnh thoảng có vệt đèn xe honda. Trong đêm tiếng động cơ xèn xẹt thành vệt dài rồi chìm vào đêm. Trận địa im lặng.
Nghe thấy cả tiếng ếch nhái. Mắt đăm đăm dõi về hướng mấy cái lô cốt ngoài ấp chợ, rồi lại lom lom ngó cái đồn đầu cầu Bông. Quay lại về hướng bắc, Đồng Dù vẫn sáng, vẫn hồng hồng cái thứ ánh sáng của trận đốt kho xăng lúc chiều qua. Một vùng phía Bắc Sài gòn nín thở trước giờ phút bùng nổ một trận công phá cuối cùng.
Mấy thằng lính thông tin rải dây vào các đại đội trở về ngồi trên bờ ruộng thay nhau dúi đầu xuống mương hút thuốc. Trung đoàn trưởng lừ lừ đi tới. Tiểu đoàn trưởng đứng lên. Tôi biết giờ nổ súng bắt đầu.
….Vậy là đêm 28/4/1975 trở thành cái đêm cuối cùng của đời tôi hành quân chiếm lĩnh, cũng là cái đêm lần đầu tiên tôi được bì bõm trên đồng ruộng vùng ven. Từ hôm đó cho tới nay đã về già không bao giờ mình bước xuống cánh đồng thơm ngái hương bùn và bâng lâng phóng đãng như tình người nam bộ vậy. Có ai đó nhớ về trận chiến có thể quên những mùi hương của không gian trận địa, chứ tôi thì tôi nhớ, nhớ mãi màu sắc hương vị trước giờ nổ súng. Trận đánh cuối cùng, đêm chiếm lĩnh cuối cùng có mùi hương rất quyến rũ của cánh đồng Nam Bộ.
(Hồi ức của Nhà văn Nguyễn Trọng Luân, nguyên chiến sĩ trinh sát thuộc Sư đoàn 320A, Quân đoàn 3. Năm 1972, trong khi đang là sinh viên năm thứ 3 ĐH Cơ Điện Bắc Thái (Thái Nguyên) thì nhà văn lên đường nhập ngũ. Ông từng là tiểu đội trưởng trinh sát E64 F320A QĐ3).