Di cư tự do: Địa phương cháy quỹ đất
Chiều 9/12, Bộ NN&PTNT tổ chức hội nghị trực tuyến sơ kết tình hình thực hiện Chỉ thị 39/2004/CT-TTg ngày 12/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục giải quyết tình trạng di cư tự do.
Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân các tỉnh trọng điểm có dân di cư tự do đến các địa bàn thuộc vùng Tây Nguyên, Bình Thuận, Bình Phước, tổng số dân di cư tự do giai đoạn 2005-2012 là 37.431 hộ (147.727 khẩu). Số lượng dân đi giảm dần qua các năm, cụ thể: Giai đoạn 2005-2010: 33.488 hộ (133.542 khẩu), bình quân một năm có 5.561 hộ di cư tự do, so với các năm trước đó giảm gần 10.000 hộ/năm; Hai năm 2011-2012 là 3.943 hộ (1.485 khẩu), bình quân một năm có 1.971 hộ di cư, so với năm 2005 giảm hơn 6000 hộ/năm.
Di cư tự do khiến rừng bị phá nghiêm trọng. Ảnh minh họa: internet |
Ngoài số lượng nêu trên còn hàng nghìn hộ dân di cư tự do đến các tỉnh có rừng đặc dụng, phòng hộ như: Tuyên Quang, Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng, Sơn La, Lạng Sơn...
Ở những vùng biên giới Việt - Trung, Việt - Lào thuộc các tỉnh Điện Biên, Lào Cai, Nghệ An, Sơn La, Thanh Hóa có khoảng 1.344 hộ di cư tự do sang các nước khác. Riêng tỉnh Điện Biên từ năm 2006 đến nay có 48 hộ di cư sang Lào, 36 hộ di cư sang Trung Quốc và 8 hộ di cư sang Myanma, 2 hộ di cư sang Thái Lan.
Địa bàn dân đến những năm gần đây chủ yếu là các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ như Đắk Lắk, Đắk Nôn, Kon Tum, Lâm Đồng, Bình Phước. Nơi dân đi gồm nhiều tỉnh trong cả nước, tập trung nhiều là các tỉnh thuộc miền núi Bắc bộ như: Cao Bằng, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Lạng Sơn, Tuyên Quang
Diễn biến của dòng dân di cư tự do khá phức tạp và khó kiểm soát nhất là đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi Bắc bộ. Hình thức di cư không ồ ạt như những năm trước, mà di chuyển từng nhóm nhỏ lẻ, cho người vào thăm người thân, ở tá túc với người di cư tự do đến trước, sau đó dựng nhà tạm, mua đất và đưa cả gia đình vào.
Nhiều hộ dân của các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng di cư tự do đến Lai Châu, Yên Bái, Bắc Kạn sau đó tiếp tục di cư vào các tỉnh Tây Nguyên, rồi lại di cư từ huyện này sang huyện khác, hoặc tỉnh khác gây nhiều khó khăn về an ninh trật tự xã hội, đặc biệt là công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu và thống kê chính xác số lượng dân di cư tự do của từng năm, từng giai đoạn.
Di dân tự do kéo theo nhiều vấn đề phức tạp về xã hội, an ninh chính trị và môi trường. Phát biểu tại hội nghị, đại biểu các tỉnh các địa phương cho biết bên cạnh những mặt tích cực của việc di dân tự do thì chủ yếu là “lợi bất cập hại”.
Đại diện huyện Tuy Đức, tỉnh Đắc Nông, một trong những địa phương có dân di cư đến nhiều cho biết, trên địa bàn không còn đất để bố trí, quy hoạch cho dân di cư.
Tương tự đại diện tỉnh Đắk Lắk cho biết tính đến nay đã có hơn 300.000 dân di cư đến tỉnh, còn hơn 33.000 người di cư chưa có đất ở, đất sản xuất. Đặc biệt báo động về tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng…
Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội Giàng A Chu kiến nghị trước hết phải tìm nguyên nhân vì sao dân bỏ đi. Các địa phương phải nắm dân, nắm địa bàn, tập trung phát triển sản xuất, đảm bảo các điều kiện an sinh xã hội để hạn chế dân di cư đến những nơi khác.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho biết: “ Tình hình di cư tự do rất phức tạp. Trước đây khó khăn còn có đất để giải quyết, giờ các địa phương khẳng định là không còn quỹ đất nữa, vâỵ chúng ta phải làm gì tiếp theo?” Bộ trưởng đặt câu hỏi.
Bộ trưởng cũng thừa nhận từ năm 1999- 2002 chính phủ chỉ đạo quyết liệt về việc di cư tự do nên tình hình di cư đã giảm đáng kể. Tuy nhiên mấy năm gần đây, việc thực hiện chủ trương khá lỏng lẻo. Qua đó Bộ trưởng yêu cầu sau cuộc họp này các địa phương cần quyết liệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị 39/2004/CT-TTg ngày 12/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện chính sách đồng bộ cả nơi dân đến và dân đi, phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, ổn định dân cư, hạn chế và đi đến chấm dứt tình trạng di dân tự do.