Tiến sĩ luật “bóc tách” hiện tượng chính sách “đoản mệnh”
Thưa tiến sĩ, từ góc độ nhà nghiên cứu, xin bà cho biết quan điểm của mình về hiện tượng có nhiều chính sách, quy định xây dựng thiếu tính khả thi, hoặc không được thực hiện, trong thực tiễn xây dựng pháp luật của Việt Nam?
TS Đoàn Thị Tố Uyên: Tôi cũng như bất kỳ người dân nào đều không mong muốn có hiện tượng này xảy ra, bởi những chính sách, quy định thiếu tính khả thi sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây lãng phí cả về thời gian và kinh phí, thậm chí làm giảm lòng tin của người dân đối với Nhà nước.
Bà nghĩ gì về những quy định “ngực lép không được đi xe 50cc trở lên”, “dự án Luật nhà văn” hoặc “mỗi người chỉ được đăng ký một xe máy... Theo bà, có thể giải nghĩa về hiện tượng này như thế nào?
TS Đoàn Thị Tố Uyên: Những chính sách thiếu tính thực tiễn được nêu trên chỉ là những ví dụ điển hình trong nhiều chính sách, quy định không khả thi đang tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tôi rất ấn tượng về những quy định này.
Tôi nghĩ, khi đặt ra những quy định này, cơ quan ban hành đều có mong muốn tốt đẹp để đạt được mục tiêu sâu xa hơn đó là đem lại hiệu quả cho hoạt động quản lý với mỗi lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), mỗi chủ thể chỉ cần không thực hiện hết trách nhiệm hoặc thực hiện mang tính hình thức, đối phó trong từng quy trình xây dựng văn bản đều dẫn đến khả năng ban hành những chính sách thiếu tính khả thi.
![]() |
Quy định rất cần thiết những không cân nhắc tính thực thi. Nguồn intenet |
Khi những chính sách, quy định không được thực hiện, hoặc “chết” từ ý tưởng, theo bà nó sẽ gây ảnh hưởng gì đến xã hội và tính nghiêm minh của pháp luật...?
TS Đoàn Thị Tố Uyên: Đó là hậu quả “tồi tệ” nhất khi nói về chất lượng của pháp luật. Không một cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành VBQPPL nào mong muốn điều này xảy ra, nhưng thực tế lại đang tồn tại nhiều quy định “treo” như vậy. Những chính sách, quy định xa rời thực tế đã gây ảnh hưởng lớn đến xã hội cũng như tính nghiêm minh của pháp luật:
Thứ nhất, Làm giảm lòng tin của người dân đối với Nhà nước; ảnh hưởng đến ý thức tuân thủ pháp luật của người dân;
Thứ 2, có những chính sách, quy định đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân (ví dụ quy định về tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng khi điều khiển phương tiện giao thông; quy định về mỗi người dân chỉ được đăng ký 01 xe máy hay quy định hạn chế nhập cư trong Nghị quyết của HĐND thành phố Đà Nẵng…);
Thứ 3, các nhà đầu tư không yên tâm đối với môi trường pháp lý thiếu ổn định và không minh bạch của Việt Nam.
Thứ 4, gây lãng phí về thời gian, kinh phí của Nhà nước;
Thứ 5, làm mất đi tính đồng bộ, thống nhất, tính minh bạch và nhất là tính hợp hiến, hợp pháp của hệ thống pháp luật….
Hậu quả của chính sách “đoản mệnh” không hề nhỏ với thực tế xây dựng, thực thi pháp luật của mỗi nước.
Bà vừa nói về hậu quả của việc ban hành chính sách thiếu tính khả thi, vậy nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng này?
TS Đoàn Thị Tố Uyên: Theo tôi, nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên được xem xét ở hai khía cạnh chủ quan và khách quan. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến việc ban hành những chính sách, quy định “đoản mệnh” có thể nói như sau:
Thứ nhất, những cơ quan được giao nhiệm vụ tham mưu soạn thảo đã không tuân thủ và thực hiện hết trách nhiệm của mình khi thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, điển hình là:
Không tuân thủ thể hiện ở chỗ: Hoạt động phân tích chính sách hiện nay còn rất yếu chưa tạo thành thói quen của người soạn thảo văn bản. Hoạt động dự báo đánh giá tác động của VBQPPL chưa được coi trọng. Trong thực tiễn đa số các cơ quan chủ trì soạn thảo đều thực hiện nhiệm vụ khảo sát, điều tra, nghiên cứu thực tiễn nhưng còn mang tính hình thức; đôi khi vừa xây dựng đề cương, viết văn bản vừa hình dung về chính sách mà không phân tích chính sách trước để lựa chọn phương án tối ưu rồi mới soạn thảo dẫn đến dự thảo cuối cùng và dự thảo đầu tiên rất khác nhau. Vì vậy những chính sách, quy định vừa được ban hành đã bộc lộ rõ tính thiếu thực tiễn.
Hoạt động lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản còn mang nặng tính hình thức. Các cơ quan soạn thảo hiện nay đều thực hiện quy định của Luật đó là lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và người dân bằng nhiều hình thức trong đó có đăng trên website của Chính phủ … nhưng chưa đem lại hiệu quả. Đa số các ý kiến đóng góp đối với dự thảo văn bản đều không được phản hồi về việc có được tiếp thu hay không tiếp thu. Vì thế nhiều chính sách đưa ra không hợp với lòng dân.
Thủ tục thẩm định, thẩm tra đối với dự thảo VBQPPL vẫn còn điểm vướng. Đa số cơ quan thẩm định, thẩm tra chỉ tiến hành xem xét đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp và sự cần thiết ban hành mà tính khả thi không được coi trọng. Vì vậy, có thể thủ tục thẩm định, thẩm tra đã “bỏ lọt” VBQPPL không có tính khả thi. Cơ quan soạn thảo bị chịu ảnh hưởng bởi sức ép về thời gian. Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã được thông qua, kế hoạch soạn thảo đã được triển khai đòi hỏi cơ quan soạn thảo không thể lùi bước. Vì vậy, đôi khi gánh nặng về thời gian hoàn thành dự thảo cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của văn bản. Thực tế cho thấy, các cơ quan soạn thảo đều có tâm lý cứ ban hành cho kịp tiến độ, sai đâu sửa đó.
![]() |
Luật ban hành van bản pháp luật |
Thứ hai, về khách quan, ở Việt Nam các quan hệ xã hội mà VBQPPL điều chỉnh còn chưa ổn định nhất là các quan hệ trong lĩnh vực kinh tế như ngân hàng, thương mại… Khi quan hệ xã hội chưa ổn định cộng với tính dự báo về tác động của văn bản thấp, trách nhiệm của người tham mưu chưa cao sẽ chắc chắn dẫn đến hệ quả “luật trên trời, cuộc đời dưới đất”…
Được biết bà là người nghiên cứu khá sâu về lĩnh vực xây dựng văn bản pháp luật, bà có thể nói cho độc giả hiểu về quy trình xây dựng chính sách của Việt Nam?
TS Đoàn Thị Tố Uyên: Hiện nay, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 và Luật Ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, dự kiến đến 2014 Quốc hội sẽ thông qua Luật ban hành VBQPPL (hợp nhất). Theo quy định của hai Luật này, quy trình xây dựng VBQPPL nói chung được thực hiện bởi các bước sau: 1. Lập chương trình, kế hoạch xây dựng VBQPPL; 2. Soạn thảo; 3. Lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo VBQPPL; 3. Thẩm định, thẩm tra dự thảo VBQPPL; 4.Trình, thông qua, ký, ban hành.
Đối với mỗi loại VBQPPL của các cơ quan Nhà nước khác nhau, quy trình cụ thể có điểm khác biệt. Như vậy, quy trình đã rõ ràng, đã có luật còn việc để xảy ra hiện tượng này là lỗi của các cơ quan ban hành văn bản cụ thể, chứ không thể đổ lỗi cho quy trình được.
Để giảm thiểu tình trạng văn ban ban hành thiếu tính thực tiễn hoặc không có hiệu lực thi hành, tôi cho rằng trước hết, các cơ quan ban hành chính sách cần thận trọng hơn nữa khi thông qua dự thảo luật và nghị quyết quy phạm pháp luật do mình ban hành. Đồng thời cần thực hiện thường xuyên và thực chất hơn chức năng giám sát đối với văn bản QPPL do các cơ quan cấp dưới ban hành.
Xin cảm ơn Tiến sĩ!