Quảng Nam – Đà Nẵng ký thỏa thuận quản lý tổng hợp lưu vực Vu Gia – Thu Bồn
Thỏa thuận được ký kết nhằm tăng cường phối hợp giữa tỉnh Quảng Nam và TP Đà Nẵng, các ban, ngành và các bên liên quan để quản lý tổng hợp (QLTH) lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và vùng bờ QN-ĐN, tiến tới hài hòa giữa phát triển kinh tế, an sinh xã hội và an toàn sinh thái, môi trường.
Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Hồ Kỳ Minh (phải) và Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh ký kếtThỏa thuận phối hợp “Quản lý Tổng hợp lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và vùng bờ Quảng Nam - Đà Nẵng (Ảnh: HC) |
Thỏa thuận cũng nhằm chia sẻ thông tin, khuyến khích hợp tác giữa các bên liên quan (các sở, ban, ngành, doanh nghiệp trên cùng lưu vực; giữa nhà nước và cộng đồng dân cư trong vùng, và các BQL các khu bảo tồn thiên nhiên và di sản trong vùng); và thiết lập thử nghiệm một thể chế liên tỉnh - thành để QLTH lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và vùng bờ QN-ĐN.
Theo đó, hai địa phương sẽ thành lập Ban điều phối liên tỉnh làm cơ quan đầu mối của lãnh đạo hai bên, trong đó Sở TN-MT có vai trò chính, có các sở, ngành liên quan cùng tham gia. 6 tháng đầu năm 2017, UBND TP Đà Nẵng sẽ đảm nhận vai trò Trưởng Ban điều phối để chủ động tổ chức một số nội dung hoạt động theo nội dung phối hợp. Trong đó sẽ giao Sở TN-MT TP chủ trì tổ chức nghiên cứu, đề xuất cụ thể về kế hoạch, quy chế làm việc của Ban điều phối, thiết lập Tổ tư vấn và tổ chức tham vấn với các bên liên quan.
6 tháng cuối năm 2017, UBND tỉnh Quảng Nam đảm nhận vai trò Trưởng Ban điều phối để tiếp tục tổ chức đánh giá tình hình liên quan và xây dựng kế hoạch thực hiện cho năm 2018. Hai Sở TN-MT có trách nhiệm làm việc với các sở, ngành liên quan của mỗi địa phương để bố trí nguồn kinh phí hoạt động của Ban điều phối ổn định hàng năm.
Bên cạnh đó, các sở, ngành liên quan cũng tổ chức làm việc, xúc tiến, huy động các tổ chức hỗ trợ cả về tài chính và kỹ thuật để tham gia thực hiện Thỏa thuận này. Trước mắt, Ban điều phối sẽ có sự hỗ trợ của Viện chuyển đổi môi trường và xã hội (ISET) và IUCN Việt Nam. Vì vậy các sở, ngành cần tiếp tục trao đổi, làm việc kỹ hơn đối với các tổ chức này cũng như các tổ chức bên ngoài khác như ADB, JICA, WB... để có những hỗ trợ lớn hơn, dài hạn hơn.
Tại buổi ký kết, Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Hồ Kỳ Minh cũng nêu rõ, ngoài bản thỏa thuận vừa ký kết, trong Kết luận 26 của Ban Thường vụ cấp ủy hai địa phương có đề nghị xây dựng “Quy chế phối hợp về bảo vệ môi trường lưu vực Vu Gia – Thu Bồn”. Hiện nay Sở TN-MT hai địa phương cũng đã có trao đổi và dự thảo.
Theo ông Hồ Kỳ Minh, UBND TP Đà Nẵng đã cơ bản thống nhất các quy định phối hợp trong quy chế này, trong đó có việc đầu tư ban đầu các trạm quan trắc nước tự động trên các sông từ nguồn ngân sách của TP Đà Nẵng. Ông bày tỏ mong muốn lãnh đạo tỉnh Quảng Nam nghiên cứu và có ý kiến chỉ đạo Sở TN-MT của tỉnh để hai địa phương sớm thống nhất.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh nhấn mạnh, bản thỏa thuận vừa được ký kết là kết quả của cả quá trình nỗ lực của hai địa phương, đặc biệt là hai Sở TN-MT. QLTH lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn theo cách tiếp cận “từ đầu nguồn xuống biển” là một cách làm mới. Hệ sông Vu Gia – Thu Bồn được đánh giá là một trong những hệ sông lớn và phức tạp nhất của Việt Nam, do đó việc QLTH lưu vực hệ sông này là hết sức cần thiết và rất có ý nghĩa đối với TP Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam nói riêng, khu vực miền Trung nói chung.
Theo ông, quy chế đề ra phải giải quyết được bài toán phức tạp đang đặt ra đối với hệ sông Vu Gia – Thu Bồn và vùng bờ QN-ĐN, đồng thời cũng phải tính toán làm sao để tạo điều kiện cho hai địa phương cùng phát triển. Trong quá trình thực hiện quy chế cần hết sức linh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH bền vững của mỗi địa phương nhưng cũng phải thích ứng với tất cả các tình huống có thể xảy ra trên thực tế chứ không nên quá cứng nhắc.
Theo Sở TN-MT Đà Nẵng, Vu Gia - Thu Bồn là một trong 9 hệ thống sông lớn của Việt Nam và là sông liên tỉnh. Diện tích toàn bộ lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn tính từ thượng nguồn đến cửa sông là 10.350 km2, tổng lượng nước bình quân hàng năm khoảng 20,22 tỷ m3. Vùng bờ QN-ĐN là phần thấp nhất của lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, dài khoảng 225km, thuộc về TP Đà Nẵng (đường bờ gần 100km) và tỉnh Quảng Nam (đường bờ khoảng 125km).
Lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn và vùng bờ QN-ĐN đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam và TP Đà Nẵng. Bên cạnh nguồn tài nguyên nước, từ sông xuống biển còn rất nhiều tài nguyên khác như khoáng sản, rừng, nguồn lợi thủy sản, du lịch... làm cơ sở cho đẩy mạnh phát triển kinh tế, du lịch, tiềm năng phát triển thủy điện… Tạo động lực cho tăng trưởng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và trở thành hình mẫu cho tương lai phát triển chuỗi đô thị miền Trung (đô thị hướng biển).
Với thực trạng các hoạt động phát triển kinh tế mạnh mẽ cùng với cách tiếp cận quản lý tài nguyên nước chưa hoàn toàn phù hợp đang trở thành yếu tố làm suy giảm chức năng của lưu vực, là yếu tố có thể gây trở ngại cho phát triển KT-XH của TP Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam trong tương lai.
Đồng thời, việc phát triển thủy điện, mâu thuẫn trong phân bổ và sử dụng nguồn nước giữa thủy điện và các ngành liên quan chưa được giải quyết thỏa đáng; cùng với sự thay đổi lớn về chế độ dòng chảy tự nhiên theo chiều hướng bất lợi, tăng khả năng đe dọa lũ mùa mưa, thiếu nước và xâm nhập mặn sâu hơn mùa khô, việc phần lớn lượng phù sa và bùn cát vận chuyển xuống hạ du và vùng bờ đã bị thay đổi, làm mất cân bằng động lực dòng sông, dòng hải văn ven bờ, là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng quá trình sạt lở bờ sông và xâm thực bờ biển.
Ngoài ra, nạn phá rừng đầu nguồn, khai thác vàng và cát, sỏi trái phép trên sông cũng là những tác nhân gây nên sự suy thoái và cạn kiệt nguồn nước, gây biến đổi dòng chảy, xói lở bờ sông. Với tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, sẽ gây ảnh hưởng lớn không chỉ cho nguồn nước mà còn đến hệ sinh thái tự nhiên…
Vì vậy, để đảm bảo phát triển bền vững, hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường thì việc QLTH lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và vùng bờ QN-ĐN là rất cần thiết và cần phải được khắc phục và giải quyết thông qua phương thức quản lý tổng hợp lưu vực sông và vùng bờ.