Người đi XKLĐ phải đóng Bảo hiểm xã hội: Liệu có phản tác dụng?
Nhiều người cho rằng, khi lao động tại nước ngoài, họ đã được chủ sử dụng đóng bảo hiểm tại đó, vậy có nhất thiết phải đóng bảo hiểm trong nước không. Mặt khác, thời gian đi lao động xuất khẩu thường ngắn (khoảng 3 năm), khi trở về họ sẽ đóng bảo hiểm tiếp như thế nào, nếu không có thu nhập ổn định?
Trước những băn khoăn của nhiều người như vậy, PV Infonet đã có cuộc trao đổi với Luật sư Nguyễn Kiều Hưng, Hãng luật Giải Phóng (Đoàn Luật sư Tp HCM) xung quanh vấn đề này.
Luật sư Nguyễn Kiều Hưng, Hãng Luật Giải Phóng (Đoàn Luật sư Tp HCM) |
Thưa luật sư, trước thông tin từ ngày 1/1/2016, người đi xuất khẩu lao động cũng phải đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) , luật sư có suy nghĩ gì?
Thoạt nghe, không riêng gì cá nhân tôi, hầu hết mọi người đều bất ngờ khi đọc được thông tin này trên một tờ báo. Quy định này không mới, vì nó đã được đề cập trong Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có hiệu lực 2006. Nghị định 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc của Chính phủ cụ thể hóa hơn quy định các trường hợp Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Theo tôi, quy định này sẽ gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế, vì Nghị định 115 quy định khá chung chung, chưa cụ thể điều kiện, trình tự, thủ tục để giải quyết các vấn đề liên quan như cấp sổ BHXH, thủ tục thu nộp, chi trả BHXH, mức lương làm căn cứ đóng BHXH ... đặc biệt với đối tượng Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân thì càng khó theo dõi, quản lý.
Có thể, vì số lượng người quan tâm đến chủ đề này không lớn, nên các cơ quan báo chí ít đăng tải, vì thế gây ra sự bất ngờ cũng là điều dễ hiểu. Mặt khác, vì ít được dư luận quan tâm nên thiếu đi những đóng góp, phản biện giúp quy định này hoàn hảo và thực tế hơn.
Có ý kiến cho rằng, người lao động (NLĐ) khi xuất khẩu lao động đã được đóng bảo hiểm tại nước sở tại, nếu đóng BHXH ở VN liệu có phải là "bảo hiểm chồng bảo hiểm” không?
Theo cách hiểu thông thường, nếu một khoản nào đó, cùng một tên gọi mà phải đóng hai lần thì gọi là “chồng” nhau, và Người lao động cũng sẽ hiểu như vậy. Bản thân họ khi làm việc cho một doanh nghiệp ở nước ngoài, họ đã có trách nhiệm đóng BHXH cho nước sở tại, nay họ lại phải đóng cho nước nơi mình có quốc tịch trên cùng một thời điểm thì đồng nghĩa họ phải đóng 2 lần.
Trong khi đó, khi tham gia BHXH ở nước ngoài, họ cũng đã được hưởng những chế độ BHXH theo luật của nước sở tại, nay phải buộc đóng BHXH trong nước để được hưởng thêm quyền lợi, cụ thể như thế nào thì lại chưa rõ ràng. Giải thích như thế nào cho NLĐ hiểu trong trường hợp này tôi nghĩ là hết sức cần thiết, bởi khi ban hành một quy định mới, bao giờ cũng có mục đích của nó, với quy định này, tôi nghĩ nó phải hướng đến quyền lợi của NLĐ, ngược lại, nó sẽ phản tác dụng và không có giá trị.
Mặt khác, người đi xuất khẩu lao động (XKLĐ) thời gian lao động tại nước ngoài không dài, thường chỉ khoảng 3 năm, việc đóng BHXH thường là để đảm bảo hưu trí cho người lao động. Nếu sau thời gian lao động trở về, người lao động sẽ phải lấy lại tiền hay đóng tiếp bảo hiểm hàng chục năm, thưa luật sư?
Nhằm tạo điều kiện cho NLĐ có thời gian đóng BHXH liên tục và đảm bảo chế độ hưu trí chọ họ là rất tốt, tuy nhiên, như đã nói khi triển khai trên thực tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Sau thời gian NLĐ trở về, việc nhận BHXH một lần hay tiếp tục đóng được thực hiện theo các điều kiện và thủ tục quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành.
Nhìn ở góc độ luật pháp, việc quy định bắt buộc đóng bảo hiểm đối với người đi XKLĐ có mâu thuẫn gì với các luật của nhà nước không, thưa luật sư?
Hiện vấn đề này đã được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Nghị định 115 Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc không mâu thuẫn với 2 luật này và Luật BHXH và Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cũng không mâu thuẫn nhau, nên về lý thuyết, quy định này không mâu thuẫn với luật hiện hành.
Tuy nhiên, khoản 3, 4 điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải: “Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của văn bản quy phạm pháp luật; Bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật.”.
Với quy định này, tôi lo ngại tính công khai và khả thi của nó. Nên dù chưa có mâu thuẫn giữa nghị định với luật hay các luật với nhau thì cũng nên xem xét lại một cách cẩn trọng.
Vậy quan điểm của luật sư nên xử lý như thế nào với quy định này, thưa luật sư?
Theo tôi, với những gì mà nghị định 115 quy định thì chắc chắn quy định này sẽ chưa thể áp dụng trên thực tế, nên trước mắt các bộ ngành liên quan cần ngồi lại để xem xét, đánh giá để đi đến kết luận về tính khả thi của nó.
Nếu xác định có tính khả thi thì cần ban hành ngay thông tư hướng dẫn thi hành vì thời điểm có hiệu lực của nghị định này chỉ còn tính bằng ngày (ngày có hiệu lực là 1/1/2016), còn nếu thấy không có tính khả thi thì nên gia hạn hiệu lực áp dụng và có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế khách quan.
Xin cảm ơn luật sư!
Đối tượng áp dụng:
Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Nghị định này được áp dụng đối với các hợp đồng sau:
a) Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
b) Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
c) Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề;
d) Hợp đồng cá nhân.
Các đối tượng quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này sau đây gọi chung là người lao động.
(Trích khoản 2, điều 2 Nghị định 115/215/NĐ- CP Quy định chí tiết một số điều của luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc)