Mối quan hệ đối đầu giữa Mỹ và Iraq không phải chỉ bắt đầu 10 năm về trước, khi cuộc chiến tranh lật đổ Saddam Hussein được bắt đầu. Thậm chí nó cũng không phải bắt đầu từ những năm 1990, khi Saddam đánh vào Kuwait. Thực tế, mối quan hệ phức tạp này đã tồn tại từ 33 năm về trước.
Mối quan hệ trong lịch sử hiện đại của hai nước bắt đầu có sự “vướng mắc” từ khi các cuộc bạo lực lật đổ diễn ra ở các nước vùng Vịnh, buộc Washington phải có những bước tiến “kiềm chế” một Iran “cứng đầu”. Các nhà hoạch định chính sách cho rằng chìa khóa để duy trì sự kiểm soát đối với các nguồn tài nguyên dầu mỏ phong phú ở Trung Đông nên bắt đầu với cái bắt tay của Saddam Hussein. Tuy nhiên, mọi thứ đã không diễn ra đúng như kế hoạch.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1980, khi Mỹ đánh mất một đồng minh Trung Đông của mình trong cuộc cánh mạng Iran.
Lúc đó, các quan chức và truyền thông Mỹ bắt đầu công bố việc xem xét Iraq như là đồng minh hàng đầu mới của mình ở vùng Vịnh. Từ trái qua phải: Ngoại trưởng Cyrus Vance, Tổng thống Jimmy Carter và Cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski trong một cuộc họp thảo luận về vấn đề Iraq.
Trong khi đó, người Iran kêu gọi người Shia trong cuộc đảo chính ở Iraq, dẫn đến sự gia tăng căng thẳng và những cuộc xung đột biên giới.
Thông qua sự hỗ trợ của quốc tế cũng như sự suy yếu của Iran, Tổng thống Saddam Hussein quyết định tiến hành tấn công hàng xóm của mình. Năm 1982, bất chấp việc các báo cáo tình báo tuyên bố Iraq sử dụng rộng rãi vũ khí hóa học, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan đã loại Saddam Hussein ra khỏi danh sách những kẻ khủng bố nổi tiếng nhất.
Mỹ bắt đầu công khai hỗ trợ cho Iraq thông qua các khoản vay lớn, trang thiết bị quân sự, công nghệ hóa học và đào tạo, cùng với các thiết bị truyền hình vệ tinh thông minh nhằm theo dõi sự di chuyển của quân Iran. Vũ khí hóa học của Iraq “không phải là một vấn đề quan tâm sâu sắc” so với sự lo ngại của Mỹ về cuộc cách mạng Iran có thể tràn vào Kuwait hay Ả Rập Saudi.
Mối lo ngại của đã trở nên rõ ràng vào thời kỳ 1985 - 1986, khi hai nước đã bị mắc kẹt trong một bế tắc tốn kém biểu hiện qua cuộc chiến tranh Iran – Iraq.
Vào cuối cuộc chiến tranh năm 1988, Iraq nợ các quốc gia: Anh, Mỹ, Ả Rập Saudi, Nga, và Kuwait số tiền lên đến 60 tỷ USD. Năm 1989, Tổng thống George H.W. Bush đã ký Chỉ thị An ninh Quốc gia 26 kêu gọi vùng Vịnh thực hiện một mối quan hệ "ổn định" trong vấn đề an ninh quốc gia của Iraq.
Tuy nhiên, có vẻ như vị đồng minh Mỹ này không dễ dàng kiểm soát. Trong năm 1990, khi chi phí tái thiết tăng cao, Saddam Hussein đã cho quân đánh Kuwait, với lý do hàng tỷ USD dầu đã bị nước này đánh cắp. Tổng thống Bush cha đã lên tiến phản đối, cho rằng “Không có lý do nào cho cuộc xâm lược này”. Ngay sau đó, Mỹ đã cho tiến hành các hoạt động quân sự để đẩy Saddam Hussein ra khỏi Kuwait.
Mỹ gọi đây là "Chiến tranh vùng Vịnh" - cùng tên với cuộc chiến tranh Iran-Iraq 10 năm trước đó. Mỹ đã thành công khi lật đổ quân đội Saddam Hussein ở Kuwait, nhưng lại đẩy cuộc chiến thành một cuộc xâm lược ở Baghdad.
Bill Clinton nhậm chức Tổng thống vào năm 1992. Năm 1994, ông gia hạn lệnh trừng phạt làm tê liệt kinh tế Iraq, dẫn đến một nạn đói khiến 5.000 trẻ em Iraq chết mỗi tháng. Năm 1995, Liên Hiệp Quốc đã thực hiện chương trình "Dầu đổi thực phẩm", cho phép Iraq bán dầu trên thị trường thế giới để đổi lấy thực phẩm.
Trong năm 1998, Tổng thống Bush cha đã viết những điều chưa nói về Baghdad: "Chúng tôi buộc phải đánh Baghdad và răn đe Iraq, điều này đã có hiệu lực. Liên minh ngay lập tức sụp đổ... Nếu chúng tôi đi theo con đường xâm lược, Mỹ có thể vẫn đầy quyền lực, nhưng ở trên một vùng đất đầy cay đắng và thù địch."
9/11/2001, Mỹ bị tấn công khủng bố. Nước Mỹ thề sẽ tìm ra “sự liên quan với Iraq” trong vụ khủng bố này. Tháng 3/2003, Mỹ và “liên minh ý chí” của mình tiến hành xâm lược Iraq.
Ba tuần sau khi ra lệnh tấn công quốc gia vùng Vịnh, Tổng thống George W. Bush tuyên bố: “Nhiệm vụ đã hoàn thành!”.
Ngày 24/07/2004, lực lượng đặc biệt quân đội Mỹ kéo Saddam Hussein ra khỏi một "lỗ nhện". Hussein bị hành quyết 30 tháng sau đó.
Cuộc chiến chưa dừng lại ở đó. Năm 2006 là đỉnh cao của các lực lượng nổi dậy Iraq, với hơn 100 vụ đánh bom mỗi ngày. Tuy nhiên, giữa năm 2007, nhóm dân quân người Sunni tự gọi mình là Con trai của Iraq đã đánh tan cơn “thủy triều” của cuộc chiến tranh.
Năm 2011, khi Tổng thống Barack Obama không thông qua được một thỏa thuận, Mỹ đã chấp nhận rút quân ra khỏi Iraq. Trong vòng 8 năm đó của cuộc chiến tranh, đã có 190.000 người bị chết, bao gồm 4.500 binh lính Mỹ. Trên ảnh là một người lính quân y của quân đội Mỹ, tên là Richard Barnett, bế trên tay một đứa trẻ người Iraq ở miền trung nước này vào ngày 29/03/2003.
Cuộc chiến ở Iraq đã tiêu tốn của nước Mỹ lên đến 2,2 nghìn tỷ USD, con số này có thể lên đến 6 nghìn tỷ USD trong tương lai khi phải gánh thêm các khoản tiền cho tái thiết hay trợ cấp cho cựu binh trở về từ chiến trường.
Hai năm sau, vào ngày kỷ niệm 10 năm xảy ra cuộc chiến, một vụ đánh bom xe ô tô đã giết chết 25 người. Cuộc nội chiến giữa những nhóm người theo các giáo phái ở Iraq vẫn còn là một vấn đề lớn.
Nhưng một số người Mỹ vẫn đang làm tốt công việc của mình ở Iraq. Hãng dầu mỏ khổng lồ Exxon đã đóng đinh xuống một trong những mỏ dầu lớn nhất của Iraq ở Qurna. Trong khi Halliburton và các công ty khác của Mỹ đã chiếm được các hợp đồng phụ phát triển khai thác dầu trị giá lên đến 150 tỷ USD.
Bộ Quốc phòng Nga vừa công bố đoạn video quay cảnh quân đội nước này tấn công, phá hủy 2 hệ thống tên lửa đất đối không Patriot do Mỹ chế tạo ở vùng Odessa, tây nam Ukraine.
Dàn tiêm kích F-16 mà các nước NATO hứa chuyển cho Ukraine sẽ bị các tên lửa hiện đại của Nga săn lùng, và tiêu diệt giống như cuộc tấn công đã phá hủy 5 chiếc Su-27 gần đây.
Hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Komar của Nga cung cấp khả năng phòng thủ tầm ngắn cho tàu chiến nhỏ và tàu hỗ trợ có lượng giãn nước lên tới 50 tấn.
Một binh sĩ điều khiển máy bay không người lái góc nhìn thứ nhất (FPV) của Nga kể lại vụ truy đuổi, tấn công phá hủy xe tăng Abrams do Mỹ viện trợ cho Ukraine vào ban đêm.