Góc khuất làng cổ
Dân cư đông đúc, nông thôn nhưng không có ruộng, không gian sống chật hẹp, người chết khó tìm chỗ an táng, trẻ em không có sân chơi và giá đất thì cao ngất ngưởng... Đó là những nỗi khổ chưa có lời giải tại làng cổ bên bờ Bắc sông Cầu.
Làng hẹp, người đông
Không nhớ hết bao nhiêu lần đặt chân đến làng Thổ Hà và trong tôi luôn gợn lên những băn khoăn. Đằng sau vẻ bình dị, mộc mạc của làng quê thuần Việt ấy là những vấn đề nhức nhối chưa dễ gì giải quyết. Trong con mắt của các nhiếp ảnh gia, Thổ Hà là nguồn cảm hứng sáng tác cho bao khuôn hình đẹp. Nhiều nhóm bạn trẻ ở Hà Nội vẫn thường rủ nhau về đây dã ngoại, rồi không ít cặp tình nhân đã chọn nơi này chụp ảnh cưới. Đi qua cổng làng rêu phong với bức đại tự: “Thổ chi tân” (Đất thiêng bền đẹp) là bước vào không gian văn hóa truyền thống.
Phong cảnh Thổ Hà hôm nay so với 10 năm trước dường như không thay đổi là bao, có chăng chỉ là xuất hiện thêm nhiều xe cộ và dân cư đông đúc hơn. Những nhánh đường xương cá ở đây sâu hun hút, thường chỉ đủ cho hai người đi bộ tránh nhau. Thổ Hà nhộn nhịp hơn vào buổi sớm khi người dân tấp nập phơi bánh đa nem, tận dụng từ các lối nhỏ ra vào, trên nóc nhà, bờ sông, cành cây, sân đình... Dưới ánh nắng hanh hao, không gian làng cổ bí bách đến ngột ngạt bởi thứ mùi đặc trưng của chất thải chăn nuôi, nước thải từ những lò bánh.
Trong làng Thổ Hà, dấu tích của nghề gốm vẫn còn hiện hữu trên những bức tường xây bằng phế liệu gốm hay tiểu sành. Tuy vậy, giờ không còn hình ảnh “Làng gốm cữ này đang độ lửa/ Khói cỏ de thơm khắp cả làng/ Thuyền đinh khoang nặng đang rời bến/ Thanh Nghệ xuôi vào, Tuyên Thái sang” (thơ Vũ Quần Phương). Đưa tôi một vòng quanh làng, ông Trịnh Đắc Hạ (65 tuổi), Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi của thôn giới thiệu: “Xưa cha ông chúng tôi có nghề gốm rất hưng thịnh, theo thời gian, nghề này dần tàn lụi, bà con chuyển sang làm bánh đa nem, bánh đa nướng, mỳ gạo, buôn bán nhỏ và nuôi lợn. Cả làng có hơn 600 hộ làm bánh đa nem. Để có những mẻ bánh phơi vào buổi sớm, bà con gần như phải trắng đêm bên bếp lửa". Ngôi làng diện tích chưa đầy 0,2km2 ấy có tới 970 hộ với gần 4 nghìn nhân khẩu sinh sống, nhà nhà chen chúc nhau đông hơn cả phố xá.
Dừng chân bên gốc đa già đầu làng, ông Hạ kể: “Chẳng đâu giống làng tôi, làng không ra làng mà phố cũng chẳng phải. Ở nông thôn nhưng dân không có nổi một vuông đất canh tác nông nghiệp. Đất chật, ngõ hẹp, khổ nhất là mỗi khi có ma chay, cưới hỏi, lễ hội. Nhà nào có đám cưới phải nhờ 4 đến 5 hộ liền kề để lấy chỗ tiếp đón khách".
Góp thêm câu chuyện, Phó trưởng thôn Trịnh Quang Liêm trăn trở: "Ngoài cổng làng và di tích lịch sử đình, chùa Thổ Hà được xem là bề thế thì công trình nào ở làng này cũng rất khiêm nhường về diện tích. Có những căn nhà chỉ có 29m2 mà mấy thế hệ xoay xở ở chung. Thổ Hà cách TP Bắc Ninh chỉ vài cây số nhưng do phải qua sông, qua đò nên hoạt động giao thương cũng như sinh hoạt của người dân gặp nhiều khó khăn".
Trẻ em Thổ Hà thiếu sân chơi. |
Khó tìm quỹ đất
Làng Thổ Hà ba mặt giáp sông nên không có đất giãn dân, việc xây mới các công trình công cộng, phúc lợi lại càng khó khăn. Câu chuyện đất chật còn là nỗi khổ của thầy, trò Trường Tiểu học Vân Hà số 2 - ngôi trường ở vị trí trung tâm làng. Có người từng bảo đây là “trường mi ni” vì phòng học, phòng chức năng, sân chơi đã thiếu lại quá nhỏ hẹp. Giờ học thể chất hoặc vài phút ra chơi, học sinh chạy ùa ra sân đình, sân chùa của làng nhưng cũng có khi sân phơi kín các giàn bánh đa nem, các em chẳng có chỗ nào chạy nhảy. 7 cô giáo trẻ ở vùng cao Sơn Động mới về công tác, nhà trường không có khu tập thể nên các cô phải thuê nhà, trong khi nhà dân còn không đủ ở lấy đâu cho thuê. Các cô phải vượt sông sang Bắc Ninh thuê nhà, đi lại khá vất vả, nhất là những khi thời tiết xấu, mưa lũ.
Trưởng thôn Cáp Trọng Việt khẳng định: Giá đất ở Thổ Hà đắt ngang đô thị. Đất bám theo trục đường chính giá 10-12 triệu đồng/m2, trong làng cũng 5-7 triệu đồng/m2, tương đương với đất TP Bắc Ninh và gấp cả chục lần các làng khác trong khu vực. Vừa rồi có nhà ở cuối ngõ, ven mặt đường hẹp nhưng bán được hơn 1 tỷ đồng.
Mọi nơi được tận dụng phơi bánh đa nem. |
Việc lo chỗ ở cho người sống đã khó, nơi mai táng cho người chết cũng luôn là vấn đề cấp thiết, nan giải không kém. Ngần ấy nhân khẩu trong một làng mà nơi chôn cất cho người qua đời chỉ vẻn vẹn chưa đầy 300m2, khu đất đó cũng phải thuê của làng Yên Viên từ hơn chục năm trước. "Vào mùa mưa bão, có khi nước dâng cao ngập hết các ngõ, hễ có cụ nào qua đời là con cháu khướt lắm. Người dân cứ thấy hở gò đất nào lên là đào đất chôn ở đó mà chẳng theo hàng lối. Có năm nước to, dân phải bơi thuyền cách bờ 500m mới đến được chỗ an táng. Các ngôi mộ nằm lộn xộn, mất mỹ quan, kéo theo là ô nhiễm môi trường. Nơi đặt mộ cát táng cũng vậy, dọc ven bờ đê ai muốn đặt mộ chỗ nào thì đào chỗ ấy. Mong ước có một nghĩa trang được quy hoạch rộng rãi là điều xa xỉ đối với Thổ Hà", ông Việt nói.
Trước gợi ý của tôi, nên chăng Thổ Hà nhân rộng hình thức mai táng văn minh như hỏa táng, điện táng để giảm bớt sức ép về đất đai, vị trưởng thôn suy tư một lúc rồi đáp: "Đúng là được như vậy thì tốt quá, việc này huyện cũng đã khuyến khích và hỗ trợ nhưng xem ra ở Thổ Hà thực hiện còn khó, cả làng mới có 2 trường hợp hỏa táng. Người dân làng cổ vốn đã quen nếp cũ chưa dễ gì thay đổi phong tục, tập quán". Không ít lần dân Thổ Hà kiến nghị chính quyền bố trí một khu đất phù hợp để quy hoạch, xây dựng nghĩa trang nhưng chưa có kết quả. Nghe nói trước đây địa phương cũng tính đến phương án giãn dân để giải quyết tình trạng quá tải về đất ở song vị trí giãn dân là nơi thấp trũng, hay bị ngập lụt nên chưa nhận được sự đồng thuận của bà con.
Rời Thổ Hà khi hoàng hôn buông xuống, những chuyến đò trên sông Cầu vẫn tấp nập người qua lại. Trưởng thôn Cáp Trọng Việt tiễn tôi với gương mặt đầy nỗi niềm. Hơn 7 năm làm trưởng thôn, ông Việt vẫn đau đáu vì chưa thể giúp dân làng có một nhà văn hóa đủ rộng để họp hành, cho người dân mượn tổ chức đám cưới, bố trí một khu đất để bà con phơi bánh cho bảo đảm vệ sinh. Bức thiết hơn cả là xây dựng một nghĩa trang nhân dân mà theo cách nói của ông là để thực hiện mục đích rất nhân văn. Tất cả nằm ở bài toán quỹ đất nhưng lời giải thì vượt sức, quá tầm của thôn.
Theo báo Bắc Giang