Gỡ điểm nghẽn trong khoa học công nghệ
![]() |
Đại biểu Phạm Trọng Nhân (đoàn Bình Dương). |
Cần có chính sách thu hút nhân tài
Đại biểu Nguyễn Ngọc Bảo (đoàn Vĩnh Phúc) cho rằng, KHCN là chìa khóa phát triển đất nước như Nghị quyết TW6 đã khẳng định. Chúng ta có nhiều lợi thế về nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp nhưng chưa phát huy được do định hướng còn chưa hợp lý và hiệu quả thấp. Việc chúng ta chi ra 2% tổng chi ngân sách là khoản chi lớn nhưng hiệu quả đáp ứng còn thấp. Nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học còn mang hình thức tham khảo. Việc phân bổ vốn còn mang tính hình thức, chưa xứng tầm là động lực then chốt phát triển đất nước.
Ông Bảo cho rằng, để phát triển nguồn lực trong KHCN cần phải có chính sách thu hút trọng dụng nhân tài, có hành lang pháp lý để phát huy chất xám và đáp ứng nhu cầu KHCN từ trong nước để rút ngắn thời gian chuyển giao và ứng dụng vào thực tế.
“Cần khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển KHCN. Do vậy cần tạo hành lang để các doanh nghiệp đầu tư vào KHCN và có cơ chế tài chính, khuyến khích các nguồn vốn ngoài nhà nước vào KHCN. Có thể khoán chi giao quyền tự chủ cho người đứng đầu các công trình khoa học", ông Bảo nói.
Đồng tình với mức chi 2% của ngân sách Nhà nước cho KHCN, đại biểu Trần Văn Minh (đoàn Quảng Ninh) cho rằng cần tăng đầu tư cho KHCN, buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến lĩnh vực này. Có như vậy mới tăng sức cạnh tranh và sức mạnh của đất nước.
Ở một góc nhìn khác, đại biểu Phạm Trọng Nhân ( đoàn Bình Dương) cho rằng, chính sách của Nhà nước vẫn chưa đủ để đảm bảo KHCN là quốc sách hàng đầu để đưa khoa học Việt Nam thăng hạng trên bản đồ thế giới.
Theo ông Nhân, luật cần làm rõ các lĩnh vực khoa học, việc quy hoạch KHCN cần có sự gắn kết giữa công tác đào tạo bồi dưỡng và nghiên cứu.
“Luật cần làm rõ khái niệm cá nhân làm KHCN, mời gọi cá nhân tham gia vào lĩnh vực này. Việc thu hút trọng dụng nhân tài phải thể hiện như một lời mời coi đây là một quan điểm của Nhà nước. Cùng với đó Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong KHCN, tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp vì sức mạnh thương hiệu quốc gia”, ông Nhân nhấn mạnh.
Nhiều công trình thiếu tính ứng dụng
Việc ứng dụng của khoa học công nghệ cũng được nhiều đại biểu quan tâm mổ xẻ. Theo đại biểu Đỗ Văn Vẻ (đoàn Thái Bình), việc phát triển thị trường KHCN phải bắt nguồn từ nhu cầu thị trường. Thực tế có nhiều trung tâm, viện nghiên cứu sau khi cấp kinh phí thì hoạt động đã không mang lại hiệu quả, nhiều công trình nghiên cứu không được ứng dụng vào thực tế dẫn đến tình trạng thất thoát lãng phí.
Ông Vẻ cũng đề nghị, Nhà nước cần rà soát lại các trung tâm nghiên cứu KHCN và chỉ cấp kinh phí cho những trung tâm nghiên cứu hoạt động hiệu quả.
“Điểm nghẽn lớn nhất cho việc phát triển KHCN chính là từ cơ chế tài chính còn nặng tính bao cấp. Việc sử dụng tài chính đúng mục đích, thanh quyết toán còn máy móc gây khó khăn cho các nhà khoa học. Do vậy việc đổi mới cơ chế tài chính là rất cần thiết và có cơ chế đặc thù cho KHCN”, ông Vẻ nói.
Theo đại biểu Phạm Xuân Thăng (đoàn Hải Dương), hơn 10 năm qua chúng ta đầu tư cho KHCN nhưng hiệu quả vẫn chưa tương xứng với mức đầu tư, việc ứng dụng vào thực tế còn yếu. Để khắc phục những hạn chế trên, ông Thăng cho rằng cần có cơ chế quản lý, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu KHCN. Cùng với đó Luật cần bổ sung các chính sách ưu đãi cho tổ chức cá nhân trong nghiên cứu KHCN, tạo động lực cho các nghiên cứu KHCN.
“Luật cần quy định một bộ tiêu chí về KHCN, đặc biệt cần tập trung vào các công trình khoa học có tính ứng dụng. Cần có cơ chế kiểm tra, đánh giá các công trình KHCN vì thực tế có nhiều công trình khi nghiên cứu được đánh giá rất cao nhưng lại bị cất vào ngăn kéo mà không có tính ứng dụng”, ông Thăng nhấn mạnh.