Dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi: BSCK I, II không biết “đứng” đâu!
Đây là những băn khoăn của Ts Nguyễn Minh Lợi, Phó Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế) xung quanh dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học sẽ được Quốc hội thảo luận vào sáng nay 6/11.
“Bỏ quên” đối tượng BSCKI, BSCKII và nội trú
Là người nghiên cứu rất kỹ và từng cho ý kiến vào Dự thảo Luật, Ts. Nguyễn Minh Lợi, Phó Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo cho rằng dù dự án luật đã được chỉnh sửa nhưng vẫn còn một số vấn đề liên quan đến đào tạo nhân lực y tế mà Ban soạn thảo chưa thể hiện được tính nhất quán, đồng bộ trong đó có nội dung rất quan trọng của Luật là về trình độ và văn bằng giáo dục đại học.
Theo đó, TS Lợi đưa ra dẫn chứng, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, để trở thành người bác sĩ hành nghề chuyên môn, sau khi hoàn thành chương trình đào tạo 6 năm ở trường đại học, người học còn phải đào tạo chuyên khoa, chuyên sâu và thường xuyên đào tạo cập nhật, phát triển nghề nghiệp.
Nhưng trong thời gian 6 năm học tập để trở thành bác sĩ, không giống như các chương trình cử nhân khác, chương trình đào tạo bác sĩ bao gồm các hợp phần, nội dung thực hành và các giai đoạn trải nghiệm công việc trực tiếp tại các cơ sở y tế dựa trên các nền tảng lý thuyết.
Y học là nhân học nên nội dung chương trình phức tạp hơn nhiều, thời gian dài hơn so với các chương trình cử nhân 4 năm, và thường có định hướng chuyên nghiệp và chuyên môn sâu hơn so với các chương trình cử nhân của các ngành khác. Chương trình đào tạo và năng lực của chuyên khoa và chuyên khoa sâu (ở Việt Nam hiện nay là đào tạo chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 và nội trú) cũng khác hẳn chương trình và năng lực đầu ra của thạc sĩ, tiến sĩ.
![]() |
Ảnh minh họa |
“Theo hệ thống trình độ đào tạo và văn bằng của nhiều nước trên thế giới, thường theo hai định hướng đào tạo là hướng hàn lâm (academic) và hướng chuyên nghiệp (professional). Trong đó, đào tạo bác sĩ đi theo hướng chuyên nghiệp nhưng trình độ đào tạo và văn bằng giáo dục đại học (bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa sâu gồm chuyên khoa 1, chuyên khoa 2) - đối với những đối tượng này không thể hòa cùng với trình độ và văn bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ. Tuy nhiên, rất tiếc là điều này chưa được thể hiện trong Dự thảo Luật - chính vì vậy cần thiết phải quy định về loại hình trình độ và văn bằng này trong Dự thảo Luật”, TS. Lợi bày tỏ.
Kiến nghị có thêm trình độ, bằng chuyên gia
TS Lợi cũng khẳng định định đây không phải là vấn đề mới, mà thực chất Điều 39 Luật Giáo dục năm 1998 của Việt Nam đã quy định và hướng dẫn cụ thể trong Điều 11 Nghị định 43/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục 1998; điều này cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng rất tiếc là những luật giáo dục hiện hành của Việt Nam chỉ giữ về văn bằng (bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư) mà bỏ mất trình độ và văn bằng chuyên sâu (trong y tế có chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 và nội trú).
Đặc biệt, trong dự thảo lần này không nói rõ về nội dung này. Vậy sẽ quy định ở đâu? Nếu không quy định ở Luật này thì cần nêu rõ quy định ở đâu và cơ quan nào quy định?
“Tôi cho rằng Ban soạn thảo đã nhận thấy vấn đề này nhưng hình như không muốn đưa vào Luật nên:
Tại Khoản 1, Điều 6 đã ghi là: "Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại Luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ",
Tại Điều 73 giao cho Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền: "quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh, thời gian đào tạo, chương trình đào tạo, điều kiện tổ chức đào tạo, quản lý đào tạo, trình độ tương đương, văn bằng, chứng chỉ phù hợp với lĩnh vực sức khoẻ và một số lĩnh vực chuyên sâu đặc thù”, TS Lợi bày tỏ.
Đáng lưu ý, Ban soạn thảo đã quy định các trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trong Luật nhưng lại giao Chính phủ quy định trình độ tương đương. Như vậy, rõ ràng là Ban soạn thảo đã nhận thấy còn có những trình độ thuộc giáo dục đại học mà không phải là cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ.
“Câu hỏi đặt ra là các chương trình đào tạo bác sĩ, chuyên khoa, chuyên khoa sâu sau đào tạo bác sĩ thì là tương đương với chương trình đào tạo của trình độ nào? Quy định ở đâu? Các chương trình đào tạo này không thể tương đương với chương trình cử nhân, thạc sĩ hay tiến sĩ vì đây là theo định hướng đào tạo chuyên sâu nên phải quy định trình độ cụ thể như các nước đã làm.
Nếu như không quy định về trình độ cụ thể cho đối tượng đào tạo nhân lực này trong Luật thì giao Chính phủ quy định về xác định chỉ tiêu, thời gian đào tạo… như ở Điều 73 chỉ làm rối hệ thống thêm mà không giải quyết được việc nâng cao chất lượng nhân lực ngành y tế (ví dụ trước đây Khoản 4, Điều 38 Luật Giáo dục đại học 2012 đã giao cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được!)”, Ts. Lợi nhấn mạnh.
Theo ông Lợi, nội dung này, Bộ Y tế đã có ý kiến nhiều lần. Chính vì thế Phó Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo đề nghị nếu không xác định là "tương đương" như ISCED 2011 thì ghi rõ trong Điều 6 là "Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại Luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ, trình độ chuyên gia", Điều 38 là "Văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân gồm: bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ, bằng chuyên gia".