Đẩy mạnh hiện đại hóa công nghiệp quốc gia theo Nghị quyết ĐH 12
Qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đề ra các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp. Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007), chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng đã liên tục được bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh, tình hình mới.
![]() |
Các chính sách chung và chính sách ngành trong lĩnh vực công nghiệp được ban hành trong thời gian qua đã có tác động tích cực đến sự phát triển của công nghiệp Việt Nam |
Tại Đại hội 12, kế hoạch phương hướng phát triển KTXH đã khẳng định Mục tiêu tổng quát
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. .
Phát biểu tại Hội nghị “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2035”,Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình nhận định, các chính sách chung và chính sách ngành trong lĩnh vực công nghiệp được ban hành trong thời gian qua đã có tác động tích cực đến sự phát triển của công nghiệp Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, nhất là trong 10 năm trở lại đây. Phát triển công nghiệp trong thời gian qua đã góp phần tích cực trong giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển công nghiệp, đất nước cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đề nghị các đại biểu dự Hội thảo làm rõ một số nội dung như: Phân tích, làm rõ các nút thắt, rào cản trong phát triển công nghiệp của Việt Nam; luận giải rõ nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong phát triển công nghiệp Việt Nam trong suốt 30 năm qua; đề xuất quan điểm, mục tiêu của chính sách công nghiệp quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; làm rõ các trụ cột chính của chính sách công nghiệp quốc gia; đề xuất các kiến nghị, giải pháp lớn của chính sách công nghiệp quốc gia…
Các ý kiến phát biểu tại Hội thảo đều nhấn mạnh, trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, rộng, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư; xác định rõ vai trò của các thành phần kinh tế trong phát triển công nghiệp để định hướng chính sách phát triển phù hợp, thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp, đa dạng hóa nguồn tài chính cho phát triển công nghiệp.
Các tham luận cũng đề xuất một số định hướng về chính sách phát triển cho giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn 2035, đó là: Điều chỉnh cơ cấu đầu tư, lựa chọn ngành ưu tiên, mũi nhọn, phát triển công nghiệp hỗ trợ và bảo vệ sản xuất nội địa thông qua hàng rào kỹ thuật.
Theo GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda, Nhật Bản, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa vừa theo diện rộng, vừa tiến sâu vào chuỗi giá trị của sản phẩm công nghiệp, đồng thời cần có chính sách khôn ngoan chọn lựa FDI và nuôi dưỡng các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Ngoài ra, phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam kết nối hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu và từng bước tạo lập thương hiệu riêng.
Cụ thể, GS Thọ cho rằng, Việt Nam ở thế hệ thứ 5, thứ 6 của các nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên có thể dễ dàng tiếp cận công nghệ, tri thức, kinh doanh. Chúng ta có thể mua hợp đồng công nghệ hoặc thu hút đầu tư trực tiếp FDI. Tính trung bình các nước trên thế giới, giai đoạn dân số vàng kéo dài khoảng 50 năm thì chúng ta đang ở giai đoạn năm thứ 30, vậy cũng phải tận dụng cơ hội này hợp lý để có thể đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phải đẩy mạnh công nghiệp hóa trong một diện vừa rộng vừa sâu mới tránh hiện tượng hậu công nghiệp quá sớm. Về diện rộng, hai lĩnh vực có thị trường lớn và Việt Nam có lợi thế và thu hút nhiều lao động là các loại máy móc bao gồm nhiều lĩnh vực như đồ điện gia dụng, máy móc dùng ở văn phòng, máy điện thoại, xe máy, xe hơi… và công nghiệp thực phẩm. Về chiều sâu, quá trình công nghiệp hóa, xuất phát từ lắp ráp, chế biến tiến sâu vào sản phẩm trung gian để tăng giá trị tính thêm, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Theo các chuyên gia, Việt Nam không nên theo đuổi chính sách ưu tiên một số sản phẩm công nghiệp riêng biệt mà nên thực thi chính sách ưu tiên phát triển một số lĩnh vực phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển dài hạn của đất nước.
Điển hình như các chính sách phát triển công nghiệp ô tô đến thời điểm này có thể khẳng định là không có nhiều hiệu quả. Trong khi đó, nhiều ngành như dệt may, da giày đều phải cạnh tranh quyết liệt nhưng không nhận được bảo hộ. Nên ưu tiên phát triển các ngành có các tiêu chí về năng lực cạnh tranh, xuất khẩu và phải đáp ứng được kỷ luật về thời gian...