Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979: Lạng Sơn đau thương
Hướng tiến công chủ yếu của địch nhằm mục tiêu vào Thị xã Lạng Sơn, đồng thời triển khai các mũi vu hồi đánh vào Lộc Bình, Tràng Định, Đình Lập nhằm thu hút và chia cắt lực lượng ta.
Trên hướng Tràng Định, quân Trung Quốc sử dụng Sư đoàn 129 Quân đoàn 43 tiến công các điểm chốt của ở Pò Mã, Pò Pùn, Lũng Xá, Khau Mười, Bản Tang… Các đợt tiến công của Trung Quốc bị Trung đoàn 199 bộ đội Lạng Sơn, Tiểu đoàn đặc công 27, Tiểu đoàn 6 Tràng Định, Đồn biên phòng Pò Mã, Bình Nghi… và dân quân Đội Cấn, Tri Phương, Quốc Khánh đánh bại trong 1 tuần chiến đấu đầu tiên. Tuy nhiên, ngày 24/2, địch sử dụng 1 trung đoàn từ Thạch An (Cao Bằng) theo Đường số 4 bất ngờ đánh vào sau lưng Trung đoàn 199. Do không có phương án đề phòng từ trước, thế trận phòng ngự của Trung đoàn 199 nhanh chóng tan vỡ. Ngày 25/2, quân Trung Quốc chiếm được Thị trấn Thất Khê.
Trên hướng Lộc Bình, Sư đoàn 127 và 128 thuộc Quân đoàn 43 Trung Quốc có xe tăng hỗ trợ tiến công các điểm chốt của Trung đoàn 123 bộ đội Lạng Sơn, Tiểu đoàn 9 Lộc Bình. Đồn biên phòng Chi Ma cùng dân quân Tú Mịch, Yên Khoái… trên các điểm cao 540, 468, 557 (Chi Ma), khu vực Bản Thín, Bản Lan, điểm cao 412, 481, 402 (Tú Mịch)... Lực lượng vũ trang Việt Nam tổ chức phòng ngự quyết liệt, đồng thời có thời điểm tổ chức phản kích buộc địch phải co cụm lại ở phía nam Núi Mẫu Sơn. Tuy nhiên trước sức áp đảo về binh hỏa lực của địch, ngày 22/2, Trung đoàn 123 phải bỏ thị trấn rút lên Núi Mẫu Sơn tiến hành chiến tranh du kích. Đến ngày 28/2 quân Trung Quốc hoàn toàn làm chủ Thị trấn Lộc Bình.
Trên hướng Đình Lập, quân Trung Quốc không tổ chức đánh lớn ngay trong ngày 17/2 mà chỉ sử dụng một bộ phận dân binh và địa phương quân tập kích lấn chiếm một số điểm chốt của Sư đoàn 338, Tiểu đoàn 131 Đình Lập, Đồn biên phòng Bắc Xa, Chi Lăng... Trước tình hình đó, Quân khu 1 quyết định điều phần lớn lực lượng Sư đoàn 338 về Chi Ma, Tú Mịch, Lộc Bình chặn địch.
Đồng thời để chia lửa cho Sư đoàn 3 ở Đồng Đăng, từ ngày 22/2 đến 26/2 Sư đoàn 338 đã chủ động dùng Trung đoàn 460 trên hướng Bản Chắt tiến công vào sâu 10km trong hậu phương của địch, loại khỏi vòng chiến 1 tiểu đoàn Trung Quốc và phá hủy toàn bộ khu doanh trại, hậu cần của chúng. Ngoài ra sư đoàn còn cho công binh luồn sâu 20km vào sau lưng địch đánh sập 2 cầu và dùng một bộ phận tinh nhuệ tập kích Sân bay Ninh Minh (Quảng Tây).
Trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 163 và 165 thuộc Quân đoàn 55 Trung Quốc chia làm nhiều mũi đồng loạt đánh vào các điểm chốt của Trung đoàn 12 Sư đoàn 3 và các đơn vị địa phương ở Đồng Đăng và Tân Thanh (Văn Lãng), trong khi đó trên hướng Cao Lộc, Sư đoàn 164 Quân đoàn 55 Trung Quốc cũng tấn công trận địa Tiểu đoàn 8 Cao Lộc ở khu vực Bản Xâm, Lục Quyên lập bàn đạp tiến công. Cuộc tiến công trên hướng Văn Lãng bị một bộ phận của Trung đoàn 12 Sư đoàn 3, Tiểu đoàn 7 Văn Lãng, Đồn biên phòng Tân Thanh, Na Hình... đẩy lui ở Nà Nôi, Bản Thấu (Tân Yên), Thụy Hùng… buộc phía Trung Quốc phải tạm dừng tiến công ngày 18/2.
Đặc biệt, tại hướng chủ yếu Đồng Đăng, nhờ vào ưu thế về binh hỏa lực và giữ được bất ngờ, ngay trong sáng 17/2 quân Trung Quốc đã chiếm được hầu hết các trận địa phòng ngự chủ yếu của ta ở Đồng Đăng, cắt đứt Đường 1A và 1B. Tuy nhiên cuộc chiến đấu ác liệt vẫn diễn ra liên tục từ ngày 17/2 đến 20/2 xung quanh thị trấn Đồng Đăng (cách thị xã Lạng Sơn 14km) và ngã ba Tam Lung (cách thị xã Lạng Sơn 7km) với các điểm nóng ở khu vực cửa khẩu Hữu Nghị và điểm cao 402, cụm chốt Thâm Mô - Pháo đài - điểm cao 339, ga Đồng Đăng, khu đồi Chậu Cảnh, điểm cao Khôn Làng….
Mặc dù bị tổn thất, các đơn vị hỗn hợp của Sư đoàn 3, Trung đoàn 12 Thanh Xuyên, Tiểu đoàn 11 bộ đội địa phương thị xã, Tiểu đoàn 1 cảnh sát cơ động, Đại đội 5 công an vũ trang, Đồn biên phòng Hữu Nghị Quan... cùng dân quân tự vệ tại chỗ đã kiên cường bám trụ trận địa, đồng thời tổ chức tiến công giành giật lại các vị trí bị chiếm đóng, gây cho đối phương những thiệt hại hết sức nặng nề.
Bị giam chân suốt nhiều ngày, đến ngày 22/2, quân Trung Quốc tăng cường lực lượng mở một đợt tiến công mới vào Tân Yên, Đồng Đăng. Nhờ ưu thế vượt trội về binh hỏa lực, sau hàng loạt trận đánh liên tục, đến ngày 23/2/1979, địch chiếm được khu vực Tân Yên, Đồng Đăng. Các lực lượng vũ trang Việt Nam rút về phía sau lập phòng tuyến mới.
Sư đoàn 3 phản kích địch ở ngã ba Tam Lung, Lạng Sơn |
Ngày 24/2/1979, Quân khu 1 quyết định thành lập Mặt trận Lạng Sơn, Thiếu tướng Hoàng Đan, Phó giám đốc Học viện quân sự cấp cao được điều về giữ chức Phó tư lệnh Quân khu kiêm Tư lệnh Mặt trận. Đồng thời, hai sư đoàn chủ lực cùng nhiều tiểu đoàn bộ binh, binh chủng và dân quân tự vệ ở tuyến sau được điều động lên chi viện cho tiền tuyến.
Từ ngày 23/2, sau khi tiến hành sơ tán các cơ quan và nhân dân trong thị xã Lạng Sơn, đội hình phòng thủ của ta được điều chỉnh lại: Sư đoàn bộ binh 3 và Trung đoàn 197 Bắc Thái đảm nhiệm phòng ngự khu vực đường 1A, 1B phía nam Đồng Đăng và trục đường từ Cao Lộc về thị xã; Sư đoàn bộ binh 327, Trung đoàn xe tăng 407 và các đơn vị của BCHQS tỉnh đảm nhiệm khu vực phía bắc và đông thị xã; Trung đoàn phòng không 272 bố trí ở cả phía bắc và nam thị xã. Sư đoàn bộ binh 337 lên tăng cường được bố trí ở phía nam Cầu Khánh Khê.
Từ 24/2 đến 26/2, phía Trung Quốc đưa lực lượng dự bị vào tham chiến và chuẩn bị mở một đợt tiến công mới nhằm đánh chiếm Thị xã Lạng Sơn. Từ Đồng Đăng, Sư đoàn 163 Quân đoàn 55 địch tiến công dọc theo đường 1A, Sư đoàn 165 Quân đoàn 55 địch tiến công xuống phía nam Đồng Đăng và cho một bộ phận đánh xuống khu vực Cầu Khánh Khê phía đông Đường 1B trong khi Sư đoàn 164 Quân đoàn 55 địch từ Cao Lộc theo các trục đường Bản Xâm, Thanh Lòa tiến về thị xã. Sư đoàn 161 Quân đoàn 54 xuất phát từ Tân Thanh sử dụng một bộ phận theo đường số 4 tiến công Na Sầm, một bộ phận thọc xuống khu vực Cầu Khánh Khê phía tây Đường 1B.
Ngày 27/2/1979, cuộc tiến công quy mô lớn của địch bắt đầu. Trong 3 ngày 27/2, 28/2 và 1/3, những trận đánh phòng ngự, tập kích và phản kích dữ dội diễn ra trên các trục đường dẫn vào thị xã, khu vực Tam Thanh, Nhị Thanh, Hoàng Đồng, Kỳ Lừa… Ở phía sau, Sư đoàn 337 lên tăng cường từ chiều 25/2 cũng bước vào chiến đấu với mũi vu hồi chiến dịch của địch trên hướng Cầu Khánh Khê, Đường 1B. Chiến sự diễn ra vô cùng căng thẳng, có những nơi như điểm cao 500, 607, 649 (đường 1B), 449, 473 (Cao Lộc)… hai bên liên tục giành đi giật lại nhiều lần.
Mặc dù các lực lượng vũ trang Việt Nam đã chiến đấu dũng cảm, đến hết ngày 28/2, các mũi tiến công của địch đã chiếm được các điểm chốt chủ yếu, áp sát bờ bắc Sông Kỳ Cùng, chia cắt các tuyến phòng ngự của ta và bao vây, cô lập Trung đoàn 12 Sư đoàn 3 và Trung đoàn 197 Bắc Thái ở Đường 1B.
Từ ngày 1/3, phối hợp với Sư đoàn 163 và 164 trên hướng bắc và tây nhằm đánh chiếm Thị xã Lạng Sơn, Sư đoàn 127 Quân đoàn 43 địch sau khi chiếm được Lộc Bình cũng tổ chức một mũi tiến công từ phía nam theo Đường số 4 đánh vào khu vực Mai Pha. Đồng thời trên hướng Lộc Bình và Đình Lập địch cũng sử dụng lực lượng của Sư đoàn 128 Quân đoàn 43 và Sư đoàn 148 Quân đoàn 50 gia tăng áp lực lên các trận địa của Sư đoàn 338 nhằm ngăn cản chi viện của ta.
Ngày 2/3, Quân đoàn 5 trực thuộc Quân khu 1 do Thiếu tướng Hoàng Đan làm tư lệnh và Đại tá Phí Triệu Hàm làm chính ủy được thành lập. Các sư đoàn bộ binh đang chiến đấu bảo vệ Lạng Sơn (3, 327, 337, 338) cùng các trung đoàn binh chủng của Quân khu 1 được đặt dưới quyền chỉ huy chung của Bộ tư lệnh Quân đoàn.
Cùng ngày hôm đó, quân Trung Quốc chiếm được Kỳ Lừa, Tam Thanh, Nhị Thanh và vào được khu vực phía bắc của Thị xã Lạng Sơn. Các đơn vị của ta rút về phía nam Sông Kỳ Cùng. Bộ tư lệnh Quân đoàn 5 quyết định điều Sư đoàn 3 về làm lực lượng dự bị, riêng Trung đoàn 12 Sư đoàn 3 tiếp tục bám trụ trên đường 1B đánh vào sau lưng địch, phối hợp với Sư đoàn 337 kiên quyết chốt chặn tuyến giao thông này, không cho địch vượt qua Cầu Khánh Khê tiến sang thị xã và Huyện Văn Quan.
Sáng 4/3, đối phương tiếp tục tung thêm lực lượng dự bị của Sư đoàn 148 Quân đoàn 50 vào tiến công. Đến chiều 4/3, trên hướng đông-đông nam quân Trung Quốc chiếm được khu vực nam Sông Kỳ Cùng, Sân bay Mai Pha, các khu phố còn lại của Thị xã Lạng Sơn và làm chủ các điểm cao phía nam thị xã vào sáng 5/3.
Tối 4/3, Bộ tư lệnh Quân đoàn 5 thông qua và bắt đầu triển khai phương án mở chiến dịch phản công. Cùng thời điểm này lực lượng tăng cường của Quân đoàn 1 cũng đã hoàn tất triển khai vào vị trí chiến đấu trên tuyến Chi Lăng-Đồng Mỏ-Hữu Kiên phía nam thị xã. Trung đoàn pháo binh 204 với 36 dàn hỏa tiễn bắn loạt 40 nòng BM-21 đã tập kết và lấy phần tử sẵn sàng khai hỏa. Ngày 5-3, giữa lúc các sư đoàn trên mặt trận đang ráo riết chuẩn bị thì trưa hôm đó, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam và ngày hôm sau quân Trung Quốc rút về phía bắc Sông Kỳ Cùng. Bộ Quốc phòng quyết định cho dừng chiến dịch phản công.
Trên hướng chính, quân Trung Quốc rút khỏi Thị xã Lạng Sơn và Huyện Cao Lộc ngày 9-3 và rút khỏi Đồng Đăng, Tân Thanh ngày 15-3. Trên hướng Lộc Bình và Đình Lập, Sư đoàn 338 tiếp tục áp sát tạo áp lực, buộc quân Trung Quốc rút khỏi khu vực này ngày 13-3. Riêng tại Tràng Định do không có lực lượng truy kích, quân Trung Quốc tiếp tục tự do cướp phá cho đến ngày 20-3 mới rút về bên kia biên giới.
Theo công bố chính thức, Lạng Sơn đã loại khỏi vòng chiến 19.000 quân Trung Quốc, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn và 4 tiểu đoàn địch, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp, 52 xe quân sự. Để lập nên chiến công này, quân dân Lạng Sơn cũng đã phải chịu hy sinh to lớn: Sư đoàn 3 hy sinh và bị thương gần 1.500 cán bộ chiến sĩ; Sư đoàn 337 hy sinh 650 cán bộ chiến sĩ, Sư đoàn 338 hy sinh 260 cán bộ chiến sĩ, Trung đoàn 197 hy sinh và bị thương 168 cán bộ chiến sĩ… 20 cá nhân và 14 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, Quân đoàn 5 được mang danh hiệu “Binh đoàn Chi Lăng”, Sư đoàn 337 được tặng danh hiệu “Sư đoàn Khánh Khê”.