Áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội là để có lợi cho người dân
Chiều 13/8, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về về một số vấn đề của dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi).
Theo đó, nội dung thảo luận được xoay quanh các nguyên tắc của tố tụng hình sự như: Suy đoán vô tội, bảo đảm tranh tụng trong xét xử, quyền của bị can, bị cáo; đọc, ghi chép tài liệu trong hồ sơ vụ án; căn cứ và thời hạn tạm giam; vấn đề bắt buộc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung bị can; biện pháp điều tra tố tụng hình sự đặc biệt; ủy quyền công tố và kiểm sát xét xử…
![]() |
Điều 13 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Cho ý kiến về nguyên tắc suy đoán vô tội này, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý cho rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội chưa toát lên được việc “xuất phát của nguyên tắc suy đoán vô tội”. Tất cả các người tiến hành tố tụng, điều tra viên từ ban đầu phải xác định họ vô tội, chưa có tội sau đó mới nghĩ đến chuyện khác.
“Khi điều tra phải chú ý đến tình tiết ngoại phạm của họ, xem có tình tiết nào vô tội và chú ý tình tiết bị can nói không phạm tội. Chứ không phải ngay từ đầu đã xác định họ có tội để thu thập chứng cứ buộc tội họ”, ông Lý nói.
Đồng tình với ông Lý, bà Lê Thị Thu Ba, Phó Trưởng Ban thường trực, Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương chỉ rõ, nguyên tắc suy đoán vô tội là phải coi họ là không có tội trước khi bản án của Tòa án có hiệu lực.
“Để tránh việc không chú ý đến tình tiết gỡ tội cho bị can bị cáo mà chỉ chứng minh phạm tội để buộc tội. Thực tế nhiều khi lỡ bắt rồi nên vẫn cố chứng minh để xử một tội cho tương xứng, điều đó khiến người ta treo lơ lửng trong khi thực tế họ không mắc phải. Như vậy là vi phạm quyền con người. Hiện nay có việc khi không chứng minh được họ phạm tội thì thường áp dụng theo Điều 25 Bộ luật hình sự nói là miễn trách nhiệm hình sự cho họ vì hành vi của họ không gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, trong khi thực tế là họ không có tội”, bà Ba nói.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình cho rằng, việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội là để có lợi cho người dân.
Liên quan đến việc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung, Ủy ban Tư pháp cho rằng đây là việc cần thiết để vừa đảm bảo minh bạch quá trình hỏi cung, vừa bảo vệ bị can, chống bức cung, dùng nhục hình, bảo vệ người hỏi cung tránh bị vu cáo. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay việc trang bị ghi âm, ghi hình đối với hoạt động hỏi cung tại các cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra là khả thi.
Vì vậy, dự thảo đã được chỉnh lý theo hướng: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra được ghi âm, ghi hình, trừ trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể ghi âm, ghi hình được thì phải nêu rõ lý do trong biên bản hỏi cung.”
Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý đề nghị nơi nào lấy cung điều tra phải ghi âm ghi hình chứ không phải chỉ ghi âm ở nơi trụ sở điều tra.
“Luật hiện hành còn cho phép hỏi cung ở nơi khác. Chẳng hạn, đối với bị cáo chưa thành niên thì luật cho phép hỏi cung tại nơi ở của bị can. Cho nên cần phải ghi âm ghi hình ở nơi hỏi cung, đồng thời bố trí máy ghi hình phải bao quát hết quá trình hỏi cung chứ ghi ở phạm vi nhỏ thì không đảm bảo”, ông Lý phân tích.
Đồng tình việc ghi âm ghi hình khi hỏi cung, Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Sơn cho rằng, nếu bị cáo nhận tội rồi thì ghi âm ghi hình niêm phong để đấy. Chỉ khi nào ra Tòa bị cáo nói bị áp cung thì mới dùng ghi âm ghi hình, chứ các trường hợp thì khác không cần.
Mặc dù thống nhất với Ủy ban Tư pháp bắt buộc ghi âm, ghi hình, nhưng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình cho rằng cần cân nhắc quy định. Bởi theo ông, nếu đã ghi âm, ghi hình rồi thì phải phát lại cho bị cáo nghe, như thế rất mất thời gian và khó khả thi, thậm chí còn gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng.