Phát hiện ổ dịch bạch hầu tại Kon Tum sau 11 năm vắng bóng
Theo VOV.vn, khoa Y học nhiệt đới BV đa khoa tỉnh Kon Tum đã tiếp nhận bốn bệnh nhân gồm: Y Huyên, Nguyễn Thị Bé, A Sứ và Y Nga (đều là HS Trường Phổ thông Dân tộc nội trú huyện Đăk Tô). Các em nhập viện trong tình trạng có biểu hiện đau họng, ho khan, sốt nhẹ, họng có giả mạc...
Kết quả xét nghiệm của Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên xác định cả bốn em đều dương tính với vi khuẩn bạch hầu.
Ảnh minh họa |
Ngay sau khi phát hiện ổ dịch bạch hầu tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú huyện Đăk Tô, ngành y tế tỉnh Kon Tum đã thực hiện xử lý môi trường ổ dịch; tiêm vaccine, cấp thuốc phòng bệnh bạch hầu cho trên 300 HS của trường. Nhà trường cũng đã áp dụng một số biện pháp cách ly, theo dõi ngăn ngừa bệnh cho các em HS.
Ngoài 4 học sinh này, khoa Y học nhiệt đới BV đa khoa tỉnh Kon Tum đang điều trị cho 10 bệnh nhân, trong đó bảy bệnh nhân dương tính với vi khuẩn bạch hầu. Khó khăn nhất trong công tác điều trị cho bệnh nhân là cùng với việc chưa có huyết thanh kháng độc tố bạch hầu thì khoa đang còn phải chịu áp lực quá tải bệnh nhân.
“Hiện bệnh nhân mắc bạch hầu hoặc theo dõi bạch hầu đã chiếm hết ba phòng bệnh. Kháng độc tố bạch hầu tới bây giờ cũng chưa có và không có trên toàn quốc chứ không phải riêng BV Kon Tum” - BS Ngô Đây nói.
Như vậy, sau 11 năm không ghi nhận ca bệnh, tháng 10 vừa qua bệnh bạch hầu bùng phát mạnh trở lại tại tỉnh Kon Tum với hai trường hợp tử vong. Các địa phương trong tỉnh có bệnh nhân bị bệnh bạch hầu gồm ba huyện Đăk Hà, Đăk Tô và Tu Mơ Rông.
BS Nguyễn Ngọc Minh cảnh báo trên báo SKĐS, đây là một bệnh nhiễm khuẩn khá nguy hiểm nếu có biến chứng. Hiện nay bệnh bệnh bạch hầu cực kỳ hiếm gặp do đã có vắc-xin phòng ngừa.
Bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn truyền nhiễm có khả năng gây tử vong chủ yếu ảnh hưởng tới mũi, cổ họng, đôi khi ở da và có thể gây tử vong. Các vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae là nguyên nhân chính gây ra bệnh bạch hầu.
Khi mắc bệnh bạch hầu, bệnh nhân thường sốt nhẹ, đau đầu, viêm họng giống như viêm amidan, dẫn tới khó thở, đau họng dẫn tới chán ăn. Ho, giọng nói khàn, sổ mũi, hơi thở hôi. Da trở nên sạm đen, hay hồi hộp, lo lắng, đánh trống ngực.
Sau khi xuất hiện triệu chứng khoảng 2-3 ngày, ở trong họng, thanh quản, mũi xuất hiện màng giả có màu trắng ngà. Màng giả bạch hầu này dai, dính và khi bóc màng giả sẽ gây chảy máu. Khi đó, màng giả có thể có màu xám hoặc đen. Tuỳ từng vị trí vi khuẩn phát sinh mà bệnh có những biểu hiện lâm sàng khác nhau:
Bạch hầu mũi: Như là một trường hợp viêm đường hô hấp, đặc biệt có chảy mũi nước và triệu chứng toàn thân nghèo nàn, dần dần chất dịch mũi trở nên nhầy quánh và đôi khi có máu và làm tổn thương bờ môi trên, hơi thở hôi. Thăm khám sẽ thấy một màng trắng trong hốc mũi. Bệnh thường gặp ở trẻ còn đang bú mẹ.
Bạch hầu họng - Amiđan: Thường gặp hơn cả, chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 trường hợp. Người bệnh chán ăn, bất an, sốt nhẹ, viêm họng. Trong vòng 1- 2 ngày màng giả xuất hiện. Hạch bạch huyết vùng cổ phản ứng có khi phù nề vùng mô mềm của cổ rất trầm trọng tạo thành triệu chứng được gọi là dấu cổ bò “Bull neck”. Đây là biểu hiện nặng, có khi gây xuất huyết dưới da, xuất huyết tiêu hoá và tiểu ra máu. Nếu tình trạng này kéo dài trong vài ngày sẽ nhanh chóng chuyển sang nhiễm độc nặng và bệnh nhân tử vong.
Bạch hầu thanh quản: Bệnh nhân thở dữ dội, tiếng rít thanh quản, khàn giọng. Phản xạ co kéo trên xương ức, thượng đòn và khoảng gian sườn rất dữ dội. Thỉnh thoảng xuất hiện khó thở đột ngột do tắc nghẽn vì một phần màng giả bóc ra bít đường thở gây tử vong
Khi được chẩn đoán mắc bệnh bạch hầu, bệnh nhân nên nghỉ ngơi tại giường, tránh hoạt động mạnh vì bệnh bạch hầu ảnh hưởng đến cơ tim và hệ cơ ở chân tay. Cách ly nghiêm ngặt để ngăn chặn sự lây lan của bệnh. Cần thường xuyên rửa tay với xà phòng diệt khuẩn để tránh vi khuẩn phát tán.
Nếu đau họng và khó nuốt nên ăn các thức ăn lỏng như cháo hoặc sữa, tránh thức ăn cứng và phải nhai nuốt nhiều.
Sau khi khỏi bệnh, cần phải đi tiêm phòng lại để ngăn ngừa bệnh tái phát. Bạch hầu có thể quay trở lại nếu không tiêm chủng để phòng bệnh.