Lễ cúng ông Công ông Táo của người miền Bắc có những gì?
Ở miền Bắc, có lẽ nét đặc trưng văn hóa khác biệt nhất với 2 miền còn lại trong lễ cúng ông Công ông Táo này chính là việc dùng cá chép làm đồ cúng lễ. Cá chép ở đây có thể là cá chép sống, cũng có thể là cá chép giấy, tùy theo từng gia đình mà có điểm khác biệt.
Người dân thường làm lễ cúng ông Táo từ khá sớm, không nhất thiết phải vào đúng ngày 23 tháng Chạp mà có thể bắt đầu từ ngày 20, muộn nhất là trưa ngày 23.
Người miền Bắc ít nơi làm lễ cúng Táo quân vào chiều tối 23 tháng Chạp bởi người ta quan niệm rằng từ 12h trưa ngày 23, các Táo phải bay về thiên đình làm lễ chầu với Ngọc Hoàng, không còn ở dương gian để nhận lễ được nữa.
Trong mâm cỗ cúng Táo quân của người miền Bắc không thể thiếu bộ áo mũ các Táo và cá chép. Tùy theo từng địa phương, từng gia đình mà số lượng cá có sự sai khác. Có nhà chỉ dùng 1 con, trong khi có nhà lại cúng tới 3 con cá chép vàng.
Cá chép còn sống được đặt bên cạnh mâm lễ vật, sau khi làm lễ xong sẽ được gia chủ đem thả phóng sinh ở nơi sông suối, ao hồ với ngụ ý để cá chép hóa rồng, làm phương tiện đưa các Táo về trời. Ngoài ra, việc phóng sinh cá còn thể hiện tấm lòng nhân đức, muốn tích đức hành thiện của gia chủ.
Mâm cỗ cúng Táo ở miền Bắc cầu kì nhất trong ba miền với đủ các món ăn truyền thống như xôi, gà, giò chả, canh măng, nem… Đặc biệt, trong mâm cỗ cúng Táo ở nhiều địa phương vùng Bắc Bộ thường sẽ có xôi chè, thường là chè bà cốt, nấu bằng nếp cái, xôi vò, đường nâu và gừng. Chè có vị ngọt ấm, tượng trưng cho mong muốn các Táo về trời nói giúp gia chủ những điều tốt đẹp, ngọt ngào với Ngọc Hoàng.
Cúng bái, đốt vàng mã, thả cá xong xuôi, người dân sẽ thay 3 ông đầu rau (kiềng, lò bếp) trong bếp bằng cách thả xuống ao, hồ, sông, suối rồi thay bộ mới vào bếp. Việc dọn bàn thờ cũng được tiến hành ngay trong ngày 23 tháng Chạp hoặc vài ngày sau đó, miễn là trước lễ Giao thừa.