Hoàn tất cáo trạng truy tố cựu Thứ trưởng Bộ LĐTBXH và cựu Tổng giám đốc BHXH
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao truy tố 6 bị can trong vụ án này gồm: Lê Bạch Hồng (SN 1954), nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, nguyên Tổng giám đốc BHXH Việt Nam; Nguyễn Huy Ban (SN 1948), nguyên Tổng giám đốc BHXH Việt Nam; Nguyễn Phước Tường (SN 1951), nguyên Trưởng ban Kế hoạch - Tài chính (nay là Vụ Kế hoạch - Đầu tư), kiêm Kế toán trưởng BHXH Việt Nam; Hoàng Hà ( SN 1976) và Trần Tiến Vỹ (SN 1957), cả hai nguyên là Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp, Ban Kế hoạch - Tài chính (nay là Vụ Kế hoạch - Đầu tư, BHXH Việt Nam); và bị can Trần Thị Thanh Thủy (SN 1979), nguyên là chuyên viên, sau là Phó trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp, Ban Kế hoạch - Tài chính (nay là Vụ Kế hoạch - Đầu tư, BHXH Việt Nam).
Trong đó, 5 bị can cùng bị truy tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, theo quy định tại khoản 3, Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999 gồm: Lê Bạch Hồng, Nguyễn Huy Ban, Nguyễn Phước Tường, Hoàng Hà, Trần Tiến Vỹ.
Riêng Trần Thị Thanh Thủy bị truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, theo quy định tại khoản 2, Điều 285 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Theo hồ sơ vụ án, BHXH Việt Nam được sử dụng nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của Quỹ BHXH để thực hiện các biện pháp đầu tư, tăng trưởng. Việc đầu tư phải được thực hiện theo luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và các quy định khác.
Ngày 25/12/2003, ông Lê Văn Sở (khi đó là TGĐ Agribank) và Nguyễn Huy Ban ký thỏa thuận hợp tác về việc BHXH đồng ý cho Agribank, các chi nhánh cấp 1 và các công ty thuộc Agribank vay vốn.
Trong đó, Agribank chịu trách nhiệm toàn bộ về việc vay, sử dụng và hoàn trả vốn của tất cả các hợp đồng do Agribank trực tiếp đi vay, các chi nhánh cấp 1, các công ty trực thuộc ký kết với BHXH do Tổng giám đốc Agribank ký bảo lãnh.
Bị can Lê Bạch Hồng khi còn tại vị. |
Ngày 1/1/2007, khi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 có hiệu lực, theo quy định tại Điều 79 của luật này và các quy định khác thì BHXN Việt Nam chỉ được cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng thương mại nhà nước vay vốn.
ALC II là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, pháp luật không cho phép ALC II vay vốn của BHXH Việt Nam và cũng không cho phép BHXH Việt Nam cho ALC II vay vốn.
Tuy nhiên, trong thời điểm tháng 2-3/2008, Vũ Quốc Hảo, khi đó là Tổng Giám đốc ALC II đã gặp Nguyễn Huy Ban và Nguyễn Phước Tường để đặt vấn đề vay vốn.
Hai bên đi đến thống nhất, để được BHXN Việt Nam cho vay vốn, ALC II phải có bảo lãnh của Agribank. Tháng 3 và 4/2008, ông Hảo ký 2 công văn gửi Tổng giám đốc Agribank đề nghị về việc nhận tiền vay của BHXH Việt Nam.
Căn cứ vào đề nghị của ALC II, ông Nguyễn Thế Bình (khi đó là Tổng giám đốc Agribank) đã ký phát hành 3 Thư bảo lãnh thanh toán để ALC II được nhận vốn của BHXH Việt Nam.
Tiếp đó, trong thời gian từ tháng 4/2008 - 8/2009, các cán bộ BHXH Việt Nam đã lập 14 tờ trình đề nghị Nguyễn Huy Ban và Lê Bạch Hồng cho ALC II vay vốn từ Quỹ BHXH.
Sau bút phê "đồng ý" của Nguyễn Huy Ban và Lê Bạch Hồng, 14 hợp đồng BHXH Việt Nam cho ALCII vay 1.010 tỷ đồng đã được thực hiện. Đến ngày 31/7/2018, TAND TP Hồ Chí Minh tuyên bố ALC II bị phá sản.
Tính đến thời điểm ALC II bị phá sản, công ty này mới tất toán 1 hợp đồng ngắn hạn, còn 13 hợp đồng quá hạn với tổng số tiền nợ BHXH Việt Nam là hơn 1.697 tỷ đồng (bao gồm hơn 769 tỷ đồng tiền gốc và hơn 928 tỷ đồng tiền lãi).
Số tiền còn nợ này, ALC II không có khả năng thanh toán, gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 1.697 tỷ đồng.
Do đó, nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, nguyên Tổng giám đốc BHXH Việt Nam Lê Bạch Hồng bị cơ quan chức năng xác định là đã ký và chỉ đạo thực hiện 3 hợp đồng cho ALC II vay vốn, đến nay không thu hồi được, gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 434 tỷ đồng.
Nguyên đơn dân sự là BHXH Việt Nam đã có công văn gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an đề nghị Agribank có trách nhiệm bảo lãnh và bồi thường thiệt hại dân sự cho BHXH Việt Nam.
Vụ án này cũng xuất hiện tranh chấp giữa ALC II, BHXH Việt Nam và Agribank trong quá trình giải quyết theo thủ tục phá sản đối với ALC II của TAND TP.HCM.
Hiện, TAND cấp cao tại TP.HCM đang thụ lý xem xét lại Tuyên bố phá sản của TAND TP Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự”.
Do đó, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao xác định thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự nêu trên phải được giải quyết trong vụ án này.
Trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan tố tụng xác định, các Thư bảo lãnh của Agribank vô hiệu, không có giá trị pháp lý đối với 13 hợp đồng vay vốn giữa BHXH Việt Nam và ALC II.
Bản thỏa thuận hợp tác giữa Agribank và BHXH Việt Nam chỉ có tính định hướng cho quan hệ hợp tác giữa hai bên, không có giá trị pháp lý ràng buộc giữa Agribank và BHXH Việt Nam.
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho rằng, hành vi của Vũ Quốc Hảo (khi đó là Tổng giám đốc ALC II) có dấu hiệu đồng phạm với các bị can bị khởi tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Về việc để xảy ra hậu quả thất thoát tài sản của Nhà nước tại ALC II, trong đó có phần tiền vay của BHXH Việt Nam, Hảo và một số cán bộ thuộc ALC II đã bị xét xử về các tội danh khác nhau trong các vụ án khác.
Trong đó, Vũ Quốc Hảo đã 2 lần bị tòa án tuyên phạt tử hình về tội “Tham ô tài sản”, hiện đang chờ thi hành án. Do đó, các cơ quan chức năng không đề cập xử lý Hảo và các cán bộ cấp dưới có liên quan tại ALC II trong vụ án này.