Cuối tuần qua, Sở GD-ĐT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành văn bản gửi trưởng phòng GD-ĐT các huyện, thị xã, TP về việc nghiêm cấm dạy thêm, học thêm đối với học sinh tiểu học. Theo đó, Sở này nghiêm cấm giáo viên cấp tiểu học tổ chức dạy thêm, học thêm. Nếu để xảy ra vi phạm, hiệu trưởng trường đó phải chịu trách nhiệm.
Tại phiên thảo luận của Quốc hội về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, ĐB Nguyễn Văn Huy (tỉnh Thái Bình) đã nêu tình trạng dạy thêm trái quy định có chiều hướng gia tăng, gây bức xúc cho nhân dân, tạo áp lực lớn cho học sinh, nhất là học sinh tiểu học.
Ông Huy cũng kiến nghị Bộ GD-ĐT nhanh chóng, khẩn trương sửa đổi các quy định liên quan để quản lý hiệu quả, sâu sát, thiết thực và hài hòa lợi ích của học sinh, phụ huynh, giáo viên... Vậy hiện nay, Bộ GD-ĐT đang có những quy định như thế nào về dạy thêm học thêm được áp dụng trong các nhà trường và đối với giáo viên?
Các nguyên tắc dạy thêm, học thêm
Hơn 10 năm trước - năm 2012, Bộ GD-ĐT đã ban hành riêng một quy định về dạy thêm học thêm và hiện nay vẫn còn hiệu lực.
Đó là Quy định về dạy thêm, học thêm được ban hành kèm theo Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012. Tại quy định này nêu rõ 5 nguyên tắc dạy thêm, học thêm (Điều 3) như sau:
Thứ nhất, hoạt động dạy thêm, học thêm phải góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng, giáo dục nhân cách của học sinh; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và không gây nên tình trạng vượt quá sức tiếp thu của người học.
Thứ hai, không cắt giảm nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá để đưa vào giờ dạy thêm; không dạy thêm trước những nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá.
Thứ ba, đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm.
Thứ tư, không tổ chức lớp dạy thêm, học thêm theo các lớp học chính khóa; học sinh trong cùng một lớp dạy thêm, học thêm phải có học lực tương đương nhau; khi xếp học sinh vào các lớp dạy thêm, học thêm phải căn cứ vào học lực của học sinh.
Thứ năm, tổ chức, cá nhân tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm phải chịu trách nhiệm về các nội dung đăng ký và xin phép tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm.
Tại Điều 4 quy định rõ các trường hợp không được dạy thêm. Đó là: Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày; Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống; Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông.
Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập: Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường; Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó.
Đối với việc tổ chức dạy thêm, học thêm trong nhà trường, quy định của Bộ GD-ĐT nêu rõ: Học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết.
Hiệu trưởng nhà trường tiếp nhận đơn xin học thêm của học sinh, tổ chức phân nhóm học sinh theo học lực, phân công giáo viên phụ trách môn học và tổ chức dạy thêm theo nhóm học lực của học sinh.
Giáo viên có nguyện vọng dạy thêm phải có đơn đăng ký dạy thêm; trong đơn có cam kết với nhà trường về việc hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ của giáo viên theo quy định chung và các nhiệm vụ khác do nhà trường phân công, đồng thời thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy thêm, học thêm trong nhà trường.
Hiệu trưởng nhà trường xét duyệt danh sách giáo viên dạy thêm, phân công giáo viên dạy thêm, xếp thời khoá biểu dạy thêm phù hợp với học lực của học sinh.
Đối với dạy thêm, học thêm trong nhà trường, việc thu và quản lý tiền học thêm (quy định tại Điều 7) để chi trả thù lao cho giáo viên trực tiếp dạy thêm, công tác quản lý dạy thêm, học thêm của nhà trường; chi tiền điện, nước và sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm.
Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với nhà trường. Nhà trường tổ chức thu, chi và công khai thanh, quyết toán tiền học thêm thông qua bộ phận tài vụ của nhà trường; giáo viên dạy thêm không trực tiếp thu, chi tiền học thêm.
Yêu cầu đối với người dạy thêm
Theo Điều 8 của Thông tư số 17, người dạy thêm phải đạt trình độ chuẩn được đào tạo đối với từng cấp học theo quy định của Luật Giáo dục; Có đủ sức khoẻ; Có phẩm chất đạo đức tốt, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân và các quy định của pháp luật; hoàn thành các nhiệm vụ được giao tại cơ quan công tác; Không trong thời gian bị kỉ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành án phạt tù, cải tạo không giam giữ, quản chế, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục; không bị kỷ luật với hình thức buộc thôi việc.
Được thủ trưởng cơ quan quản lý hoặc Chủ tịch UBND cấp xã xác nhận các nội dung quy định tại khoản 3, khoản 4 điều này (đối với người dạy thêm ngoài nhà trường). Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập phải được thủ trưởng cơ quan quản lý cho phép.
Người tổ chức học thêm, dạy thêm phải đáp ứng các yêu cầu sau: Có trình độ mà được đào tạo tối thiểu tương ứng của giáo viên; Đủ sức khỏe; Không thuộc các trường hợp đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự, kỷ luật, chấp hành về án phạt tù, bị quản chế, cải tạo không giam giữ hoặc bị áp dụng với biện pháp giáo dục ở xã phường, thị trấn; đưa vào các cơ sở giáo dục, khám chữa bệnh; không bị buộc thôi việc do bị kỷ luật
Địa điểm tổ chức cần đảm bảo an toàn cho người dạy và người học, ở xa nơi có tiếng ồn, bụi, khí độc… Phòng học thêm cần đảm bảo về diện tích trung bình tính 1,1 m2 trên một học sinh trở lên, có đủ độ chiếu sáng, thông gió theo nhân tạo và tự nhiên, đảm bảo về tiêu chuẩn phòng bệnh, vệ sinh. Kích thước ghế, bàn học sinh, bố trí về bàn và ghế phải đảm bảo theo quy định. Bảng học phải là bảng chống lóa, các màu sắc, kích thước, cách treo đạt yêu cầu theo quy định. Có nơi chứa rác thải hợp vệ sinh, công trình vệ sinh.
Việc dạy thêm còn chịu chế tài bởi Nghị định 138/2013/NĐ-CP ban hành ngày 22/10/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Tại nghị định này, Điều 7 quy định rõ các mức phạt khi vi phạm quy định về dạy thêm như sau:
1. Phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định về dạy thêm theo các mức phạt sau đây:
a) Từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm không đảm bảo cơ sở vật chất theo quy định;
b) Từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm không đúng đối tượng;
c) Từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm không đúng nội dung đã được cấp phép;
d) Từ 6.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm khi chưa được cấp phép.
2. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép dạy thêm từ 6 đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều này;
b) Đình chỉ hoạt động dạy thêm từ 12 đến 24 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều này.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc bổ sung đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều này;
b) Buộc trả lại cho người học các khoản tiền đã thu và chịu mọi chi phí trả lại đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm b, c và d Khoản 1 Điều này.