Cách phân biệt "game hợp pháp" và "game đánh bạc" trên mạng Internet
Bạn đọc Minh Tú hỏi: Vừa qua, Bộ Công an đã triệt phá vụ án “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, đánh bạc, mua bán trái phép hóa đơn và rửa tiền” xảy ra tại tỉnh Phú Thọ và một số tỉnh, thành phố khác. Tôi muốn biết: Làm thế nào để phân biệt “game hợp pháp” và “game đánh bạc”? Căn cứ vào đâu để xác định một người tham gia chơi “game đánh bạc”? Nếu tôi vô tình chơi “game” trên mạng internet mà không biết đó là trang mạng chuyên sử dụng để hoạt động “game đánh bạc” thì tôi có phạm tội không?
Về các thắc mắc của bạn Tú, Bộ Công an trả lời: “Game hợp pháp” là các trò chơi điện tử đã được phê duyệt nội dung, kịch bản và được cung cấp bởi các doanh nghiệp đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử G1, G2, G3, G4 (danh sách các doanh nghiệp và trò chơi được cấp giấy phép đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông, đường dẫn: https: //dvc.mic.gov.vn).
Đối với hành vi “đánh bạc”, theo Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và 249 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tại Điều 1 xác định: “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.
Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, quy định về tội đánh bạc như sau:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng; hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này; hoặc đã bị kết án về tội này hay hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Như vậy “cờ bạc” là hiện tượng xã hội tiêu cực, bị dư luận xã hội lên án, đấu tranh, loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Đối với các hành vi nguy hiểm trong các loại hình cờ bạc, Nhà nước quy định đó là tội phạm cần xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự.
Cũng liên quan đến tội danh đánh bạc, bạn đọc Lê Thị Dung hỏi: Chồng tôi bị Công an bắt khi đánh bạc cùng hai người nữa, số tiền thu giữ được là 1.300.000 đồng. Xin hỏi chồng tôi sẽ bị xử lý như thế nào và đánh bạc bao nhiêu tiền thì bị phạt tù?
Về trường hợp này, Bộ Công an trả lời: Trong trường hợp này do chưa xác định được hình thức đánh bạc và số tiền 1.300.000 đồng thu giữ của ai, vì vậy chưa thể xác định được hình thức xử lý. Người vi phạm cần liên hệ trực tiếp với đơn vị tổ chức điều tra để được cung cấp thêm về vụ việc và hình thức xử lý.