3 lý do xử phạt xe "không chính chủ" khó thực hiện
LTS: Theo Nghị định 71/2011/NĐ-CP, những người đi xe mô tô, xe gắn máy không chuyển quyền sở hữu theo quy định sẽ bị xử phạt từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng. Dư luận đang có nhiều ý kiến lo lắng về việc đi xe không “chính chủ” (tên chủ xe và người điều khiển không trùng nhau). Để rộng đường dư luận, Báo điện tử Infonet đăng ý kiến tải bức thư của độc giả Vinh Hà.
Những ngày gần đây, câu chuyện xe “chính chủ” và mức xử phạt rất nặng (lên tới 1 triệu đồng nếu người sử dụng xe mô tô gắn máy sử dụng xe với giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không mang tên mình) đang dần nóng trên các báo cũng như trên các diễn đàn.
Tất nhiên, khi đưa ra một quy định nào đó, cơ quan quản lý Nhà nước luôn có cái lý của mình, và cái lý ở trường hợp này là đảm bảo việc quản lý nhà nước về phương tiện cơ giới, cũng như tăng thu ngân sách, nhưng cũng như rất nhiều bài học trước đây, dường như khi đưa ra một giải pháp nào đó, cơ quan lập pháp chỉ quan tâm giải quyết bài toán trước mắt, mà không hề xem xét giải pháp mình đưa ra có khiến xã hội nảy sinh thêm các vấn đề nào khác hay không.
![]() |
CSGT xử phạt xe vi phạm |
Trước hết, phải khẳng định, phải còn rất lâu nữa, thậm chí không bao giờ có thể xử phạt xe "không chính chủ" đang lưu thông. Nếu chủ trương hạn chế phương tiện cá nhân còn được áp dụng thì việc mỗi người Việt Nam có đủ khả năng để trang bị cho mình một phương tiện cơ giới, mà tối thiểu là chiếc xe máy là rất khó. Việc sử dụng chung, cho mượn, … phương tiện cơ giới là rất phổ biến. Đó là một thực tế không thể phủ nhận.
Thứ hai, một nguyên tắc của pháp luật tố tụng là, việc chứng minh đương sự có lỗi luôn thuộc về các cơ quan chức năng. Thế nhưng, với những quy định về xe chính chủ, bỗng nhiên người dân lại phải “vắt óc” nghĩ ra cách chứng minh mình không sở hữu chiếc xe mình đang sử dụng – trong khi đúng ra việc đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng, mà cụ thể là cảnh sát giao thông.
Trong trả lời báo chí Thiếu tướng Nguyễn Văn Tuyên, Cục trưởng Cục CSGT Đường bộ, Đường sắt cho rằng: “Chưa có giấy tờ nào về việc đó và sẽ có văn bản hướng dẫn việc đó. Trong trường hợp bị CSGT thổi còi thì người điều khiển phải trình bày. Nếu trình bày có lý thì anh em sẽ không phạt”. Nghe cách lý giải này pháp luật lại tùy thuộc vào sự “cảm thấy có lý” của CSGT mà không mang tính khách quan của pháp luật?
Thứ ba, có thể nói các giải pháp mà các cơ quan chức năng đưa ra để người dân có thể chứng minh hoàn toàn phi thực tế, và nghiêm trọng hơn, vi phạm Bộ Luật Dân sự. Nếu là người trong gia đình mượn xe của nhau, không lẽ đi đâu họ cũng phải kè kè vác theo Sổ hộ khẩu. Vả lại, nếu nhiều người mượn xe lẫn nhau, trong khi Sổ hộ khẩu chỉ có một cuốn, thì sẽ giải quyết thế nào. Trong nhiều trường hợp khác, như anh em họ hàng, bạn bè mượn xe của nhau thì Sổ hộ khẩu cũng không giải quyết được vấn đề - và cơ quan chức năng đã đặt ra những yêu cầu cực kỳ vô lý trong trường hợp này như yêu cầu người sử dụng xe phải có hợp đồng mượn xe, hay phải yêu cầu chủ xe có mặt.
Xin hỏi các cơ quan chức năng, nếu chủ xe đang ở quê, hay ở nước ngoài, thì họ có cần học “Cân đẩu vân của Tôn Ngộ Không” để “hô biến” về gặp cảnh sát giao thông nhằm chứng minh việc cho mượn xe hay không? Mượn chiếc xe chạy đi chợ mua rau và phải viết một hợp đồng cho mượn với thời hạn 30 phút có hợp lý không – trong khi Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã quy định rõ rằng hợp đồng có thể giao kết bằng lời nói.
Có thể nói, những quy định về “xe chính chủ” đã lại một lần nữa đặt ra những khó khăn cho chính người dân và những người thực hiện. Chính vì vậy những ngày đầu tiên thực hiện Nghị định này phần nhiều là chỉ nhắc nhở.
Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định 36/NĐ-CP
3. Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng đối với chủ xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây:
a) Tự ý đục lại số khung, số máy;
b) Tẩy xóa, sửa chữa hoặc giả mạo hồ sơ đăng ký xe;
c) Tự ý thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước của xe;
d) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe;
đ) Giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông;
e) Không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định;
g) Không mua hoặc nộp phí cho phương tiện khi tham gia giao thông theo quy định.