14 lần ước mơ làm bố không thành của người cựu binh mù
Đó là câu chuyện về người cựu binh mù Lê Văn Lớp (sinh năm 1953) xã Hòa Tiến, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Suốt cuộc đời cống hiến, hy sinh cho đất nước của ông được Hội nạn nhân chất độc da cam tỉnh Thái Bình ghi công bằng tám chữ vàng danh dự “Trọn nghĩa nước non, vẹn tình đồng đội”.
Chúng tôi đến thăm gia đình ông vào một chiều mưa bão tháng bảy, trong ngôi nhà mái ngói đơn sơ. Thỉnh thoảng tiếng cười lại được cất lên mỗi khi ông kể về đồng đội, về đàn cháu chắt xung quanh mình.
Bằng chất giọng mang đặc trưng của người Thái Bình, ông giới thiệu cuốn kỷ yếu về đại đội tên lửa chống tăng B72, trung đoàn 371 thuộc Bộ tư lệnh Pháo binh, về những hồi ức một thời oai hùng, những tâm sự, những mất mát hy sinh được những người đồng đội từ chiến trường trở về ghi lại.
Nhưng ít ai biết rằng đằng sau nụ cười đó đã có một thời gian dài ông ngập chìm trong bi kịch gia đình khi bản thân ông bị mù, vợ và 11 người con không thể cùng ông đi hết cuộc đời.
Bà Nguyễn Thị Lịnh là người dẫn ông Lê Văn Lớp đi lại hàng ngày |
Bi kịch của một gia đình
Trở về từ sau chiến trường ác liệt, chàng trai trẻ Lê Văn Lớp bắt tay vào việc vỡ đất, trồng cây, làm tròn đạo hiếu với cha mẹ già. Năm 1976, ông và bà Nguyễn Thị Dung (sinh năm 1954) nên duyên vợ chồng. Những tưởng hạnh phúc từ đây sinh sôi nảy nở nhưng có ai ngờ rằng cũng từ đây chuỗi bi kịch cuộc đời ông bắt đầu.
Cùng năm đấy, khi đứa con đầu lòng ra đời, vợ chồng ông háo hức chờ đợi, bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu mơ ước bỗng chốc vụt tắt khi cô y tá cho biết cháu bị dị tật bẩm sinh, không có đầu, không chân chỉ có duy nhất cánh tay được mọc ra trên hình hài bé nhỏ. Quá đau đớn vợ ông ngất lịm đi.
Không từ bỏ ước mơ được làm bố, cho đến khi vợ sinh hạ lần thứ năm nhưng vẫn không thành, ông thật sự bi quan. Ông tâm sự “Khi sinh đến cháu thứ 5 tôi quá chán nản. Hơn thế, bà con hàng xóm không hiểu chuyện lại bàn ra tán vào làm cho gia đình tôi càng thêm tuyệt vọng”.
Thời đấy, ông chưa từng nghe đến cái tên chất độc hóa học, chất độc da cam nên cũng chưa từng nghĩ nguyên nhân của những lần vợ sinh nở không thành là do mình. Ông tìm mọi cách chạy chữa cho vợ.
Gia sản có gì đáng giá ông đều bán hết, từ ao cá cho đến mảnh đất đang sống ông cũng bán đi một nửa. Dù hoàn cảnh khó khăn, gia đình ông cũng nhận nuôi cháu bé 5 tuổi, mồ côi cha mẹ về chăm sóc như con cái trong nhà. Đây cũng là khoảng thời gian thị lực của ông giảm đi trầm trọng, mọi thứ xung quanh cứ mờ dần, phải một lúc lâu sau mới định hình được. Nhưng vì chẳng còn tâm trí nghĩ cho mình nên ông để mặc.
Năm 1986, vợ ông trở dạ đứa con thứ 8 đúng vào đêm cơn bão số 5 đổ bộ vào quê ông. Do thị lực giảm, không còn nhìn rõ mọi thứ nên ông phải nhờ anh em hàng xóm đưa vợ lên trạm xá còn ông và con gái ở nhà chèo chống bão. Căn nhà tranh vách đất vốn ọp ẹp từ lâu nay thêm trận bão đổ sập xuống.
Nhà sập, hai cha con chỉ còn biết ngồi dưới bếp đợi đến khi trời sáng. Cũng từ cơn bão năm 1986, ông hoàn toàn không nhìn thấy ánh sáng. Giữa lúc vợ con đang cần ông bên cạnh thì đôi mắt của ông không nhìn thấy gì. Ông như hóa điên, bao nhiêu câu hỏi cứ bủa vây tâm trí ông, tại sao cuộc đời lại cay nghiệt đối với ông như vậy? Tại sao lại là ông?
Cuộc sống cứ thế trôi đi, bao nhiêu hi vọng rồi lại tuyệt vọng, nỗi đau khổ càng thêm chất chồng sau mỗi lần chính tay ông phải lo hậu sự và chôn cất các con. 11 người con lần lượt ra đời nhưng không một đứa con nào ở lại với bố mẹ. Các cháu sinh ra không được trọn vẹn, có cháu không một tiếng khóc chào đời. Đau đớn hơn, có những cháu khi sinh ra chỉ là một cái bọc bùng nhùng không rõ hình hài.
Đau lắm chứ, có người bố người mẹ nào không đau khi các con mình đứt ruột sinh ra lại như thế. Nhưng nước mắt của những ông bố bà mẹ đó đã chảy ngược vào trong khi cứ tiếp nối những nỗi đau như thế.
Hội nạn nhân chất độc da cam tỉnh Thái Bình ghi nhận công lao của ông bằng tám chữ vàng danh dự “Trọn nghĩa nước non, vẹn tình đồng đội”. |
Gian nan con đường chứng minh mình
Nhà bị sập, ông mất hết giấy tờ. Tài sản duy nhất ông còn giữ được là giấy chứng nhận huân chương giải phóng. Thấy gia cảnh hai vợ chồng quá khó khăn, nhiều người mách ông tìm lại những đồng đội cùng chiến đấu nơi chiến trường đứng ra làm chứng. Hai vợ chồng lại dìu dắt nhau đi khắp nơi. Sang xã Chí Hòa, xã Dân Chủ rồi lại xuôi về Ninh Bình để tìm đồng đội.
Sau này, ông được hưởng tiền bảo trợ mỗi tháng 84.000 đồng. Số tiền chẳng nhiều nhặn gì nhưng đối với vợ chồng ông cứ có cơm ăn hai bữa, ngày hai lần đỏ lửa, không phải ăn sung cho qua bữa là vui lắm rồi.
Biết được hoàn cảnh khó khăn của gia đình, năm 1997, một bác sỹ về thăm gia đình ông rồi tiến hành lấy mẫu máu gửi sang nước ngoài giám định. Lúc đấy ông mới biết mình bị nhiễm chất độc da cam dioxin và được xét hưởng chế độ chất độc da cam loại một.
Từng đấy năm chinh chiến trên chiến trường, gian khổ ác liệt của chiến tranh không làm ông chùn bước, nhưng người lính bộ đội cụ Hồ đó đã gục ngã trước số phận cay nghiệt của mình. Năm 2001, người vợ đã cùng ông trải qua bao khó khăn, khổ cực đã vĩnh viễn ra đi vì căn bệnh suy thận nặng và viêm nhiễm do sinh nở nhiều lần. Bản thân ông không nhìn thấy gì. Đau khổ tột cùng, đã có lúc con người ấy nghĩ đến cái chết để được giải thoát nhưng rồi nghĩ đến con gái nuôi, ông lại cố gắng.
Huy chương kháng chiến do Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng cho đồng chí Lê Văn Lớp |
Hai con người cô độc tìm đến nhau
Năm 2002, được bạn bè, anh em động viên, ông đi thêm bước nữa với bà Nguyễn Thị Lịnh (sinh năm 1959) là thanh niên xung phong, đồng thời cũng là người cùng làng. Cảm thông trước hoàn cảnh của ông, bà Lịnh bỏ qua mọi lời khuyên ngăn từ phía gia đình để đến với con người đau khổ này.
Từ khi chuyển về ở chung khao khát có một đứa con để vui lúc tuổi già lại trỗi dậy trong con người ông. Tuy nhiên, cả ba lần mang thai bà Lịnh đều không giữ được.
Chia sẻ về cuộc sống hiện tại, ông Lớp cho biết bà Lịnh là người giúp đỡ ông trong lúc khó khăn nhất nhưng lại là người chịu nhiều thiệt thòi. Hiện nay, bà không được hưởng bảo hiểm y tế.
“Trường hợp của tôi quá nặng nên không cần đi giám định hàng năm. Tuy nhiên, vì không giám định hàng năm nên tôi không được cấp quyết định để làm bảo hiểm cho vợ. Hiện nay, cô ấy vẫn chưa được hưởng bảo hiểm của người chăm sóc”. Mong muốn vợ được hưởng chế độ bảo hiểm như đáng ra bà vốn được hưởng là mong muốn chân thành của người cựu binh năm nào.
Chiến tranh đã lùi xa, những đau thương mất mát cũng phần nào lắng lại, cô con gái mà ông bà chăm sóc đã yên bề gia thất. Trong ngôi nhà bé nhỏ đó, có hai con người cô đơn đang dựa vào nhau, động viên nhau sống tốt. Mong rằng, những đau thương từ đây sẽ chấm dứt và tiếng cười sẽ còn mãi trong ngôi nhà ấm áp tình thương yêu đó.