Liên minh nghị viện thế giới và bối cảnh hiện nay (II)

Từ năm 1945 đến nay, Liên minh Nghị viện thế giới đã có những thay đổi căn bản, điểm trọng tâm là Tìm kiếm vị thế- khắc phục sự thiếu dân chủ trong quan hệ quốc tế.

Giai đoạn từ năm 1945 đến nay: Tìm kiếm vị thế của Liên minh - khắc phục sự thiếu dân chủ trong quan hệ quốc tế

Ảnh hưởng của Liên minh dựa trên những thành công về tổ chức và nội dung hoạt động sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Mặc dù không thể ngăn chặn được các cuộc chiến tranh thế giới, chủ nghĩa liên nghị viện vẫn tiếp tục phát triển từ trong lòng các cuộc chiến tranh. Vì vậy, quyền lực đã dần nhường chỗ cho tổ chức liên chính phủ quốc tế đầu tiên được thành lập ngày 10 tháng 1 năm 1920 là Hội Quốc Liên nhằm mục đích duy trì hòa bình thế giới, ngăn ngừa chiến tranh thông qua an ninh tập thể, giải trừ quân bị, giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua đàm phán và trọng tài. Hội Quốc Liên tồn tại trong 26 năm, chính thức kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình vào ngày 20 tháng 4 năm 1946. Việc Liên Hợp Quốc ra đời ngày 24 tháng 10 năm 1945, kế thừa một số cơ quan và tổ chức do Hội Quốc Liên thành lập là một sự kiện quan trọng do nhiều yếu tố khác nhau như vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc giữ gìn hoà bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai cùng những hậu quả thảm khốc đối với loài người và nỗ lực lớn lao của các nước trong việc thiết lập một thể chế toàn cầu có vai trò hiệu quả hơn đối với hoà bình và an ninh quốc tế.

Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, Liên minh Nghị viện Thế giới tăng cường hoạt động trên các lĩnh vực: giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình, giải trừ quân bị và an ninh quốc tế. Đồng thời Liên minh đã hỗ trợ Hội Quốc Liên giải quyết một số vấn đề về pháp điển hóa và phát triển luật pháp quốc tế, thúc đẩy và hoàn thiện thể chế đại diện, bảo vệ các dân tộc thiểu số, các vấn đề thuộc địa, kinh tế, chính sách xã hội, nhân đạo và quan hệ tri thức. Hoạt động của Liên minh chưa nhiều nhưng đã đi vào những nội dung sâu, thực chất hơn so với thời kỳ trước chiến tranh. Liên minh ngày càng quan tâm tới các vấn đề mới chưa được pháp luật điều chỉnh như trong luật pháp hình sự quốc tế, quyền của các dân tộc thiểu số hoặc giải trừ quân bị. Cuối cùng, Liên minh cũng đã thành công trong việc giúp phê chuẩn điều ước quốc tế ở cấp quốc gia.

Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Liên Hợp Quốc được thiết lập nhằm 4 mục tiêu: Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế; Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết; Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo; làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu chung.

Tuy nhiên, trong những năm 1951-1957, Liên minh là trung tâm quan trọng để tái lập quan hệ chính thức với các đối tác quốc tế - điều kiện tiên quyết cho đàm phán hòa bình, ví dụ như cuộc đàm phán giữa các nghị sỹ Đức và Israel ở Istanbul năm 1951, dẫn đến việc thỏa thuận đền bù Đức - Israel năm 1955, hay các cuộc đàm phán tương tự diễn ra trong thời gian Hội nghị Liên minh Nghị viện Thế giới đã dẫn đến sự kết thúc cuộc xung đột Italy - Nam Tư về Triet (phần lãnh thổ của Italy), tranh chấp giữa Áo - Italy  liên quan đến miền Nam Tiron vào năm 1954 và cuộc khủng hoảng kênh đào Suez giữa Anh - Ai Cập năm 1957.

Một mặt, Liên minh đã đạt được một số thành tựu bước đầu trong việc củng cố tổ chức, hoạt động của Liên minh như đề xuất soạn thảo Quy chế và Điều lệ của Liên minh. Mặt khác, Liên minh tiếp tục đối phó với việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và duy trì hòa bình thông qua giải trừ quân bị; tăng cường các thể chế đại diện, đồng thời hỗ trợ Liên Hợp Quốc trong việc pháp điển hóa luật pháp quốc tế, giải quyết các vấn đề dân tộc thiểu số và phân biệt chủng tộc, viện trợ nước ngoài và giải phóng thuộc địa, vấn đề kinh tế và thương mại, vấn đề xã hội và nhân đạo và quan hệ tri thức.

Từ những năm 1970 trở đi, Liên minh quan tâm giải quyết một số vấn đề về vi phạm nhân quyền đối với các nghị sỹ, vấn đề môi trường, đại diện bình đẳng của phụ nữ trong Nghị viện và thiết lập chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho các Nghị viện, chủ yếu là các nền dân chủ mới. Tuy chưa phải là đột phá, nhưng đây là bước điều chỉnh quan trọng trong hoạt động của Liên minh. Sau nhiều nỗ lực, Liên minh đã thành công trong việc hỗ trợ thực hiện các mục tiêu của Liên Hợp Quốc, tăng cường quan hệ hợp tác và phối hợp tổ chức các hội nghị chuyên đề quốc tế và khu vực. Vị thế quốc tế của Liên minh được thay đổi, thể hiện qua việc ký Hiệp định giữa Chính phủ Liên bang Thụy Sỹ với Liên minh Nghị viện Thế giới vào ngày 28 tháng 9 năm 1971 về địa vị pháp lý của Liên minh, để được hưởng quyền và có nghĩa vụ tương tự như các tổ chức liên chính phủ về quyền miễn trừ ngoại giao. Tuy nhiên, khả năng tìm kiếm sự đồng thuận rộng rãi của Liên minh trong giới chính phủ vẫn còn gây tranh cãi như khó khăn đã xảy ra trong quá trình Hội nghị An ninh và Hợp tác Châu Âu - CSCE. Liên minh không củng cố được ảnh hưởng chính trị như trước đây và cũng không đủ khả năng nâng cao nhận thức, hiểu biết chung của thế giới về hoạt động của Liên minh. Ngoài ra, Liên minh còn thể hiện sự do dự đối với việc sử dụng tư cách quan sát viên tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Những điều này đã hạn chế vai trò định hướng cũng như sự đóng góp của Liên minh trong quan hệ quốc tế.

Tăng cường dân chủ trong quan hệ quốc tế

Trong những năm 1990, chiến tranh Lạnh kết thúc dẫn đến những điều chỉnh cơ bản và thực chất trong hoạt động của các thể chế đa phương. Sự phát triển của các mối quan hệ quốc tế nói chung làm gia tăng sự chồng chéo của nhiều vấn đề, chủ đề khác nhau. Bối cảnh đó đòi hỏi Liên minh phải bổ sung, điều chỉnh nội dung và phương thức hoạt động sao cho phù hợp hơn với tình hình thế giới mới, nhất là phát huy đặc thù của Liên minh là một diễn đàn, một tổ chức quốc tế của nền ngoại giao nghị viện. Vấn đề hòa bình và an ninh được hiểu chung là an ninh con người. Như vậy, các chủ đề nghị sự của Liên minh không chỉ là đối thoại, phòng ngừa xung đột, quản lý khủng hoảng xét từ khía cạnh lý thuyết hay trên thực tế (ngoại giao nghị viện, ví dụ như vấn đề Trung Đông hoặc vấn đề đảo Síp), kiểm soát vũ khí, khủng bố và tội phạm có tổ chức mà còn bao gồm các vấn đề như phát triển bền vững, dân số, môi trường, thương mại và kinh tế, hoặc tình trạng thiếu lương thực, dinh dưỡng, nghèo đói, thiên tai, nhân quyền, dân chủ, các nhóm thiệt thòi, sức khỏe, quan hệ hợp tác về tri thức v.v. Bên cạnh đó, sự chuyển đổi trọng tâm từ hợp tác châu Âu (Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu) sang hợp tác với khu vực Địa Trung Hải (Hội nghị về An ninh và Hợp tác Địa Trung Hải) và sự gia tăng hoạt động của các nhóm địa chính trị góp phần làm mới nghị trình của Liên minh trong thời kỳ này. Liên minh hỗ trợ cho quá trình dân chủ hóa ở các quốc gia, trợ giúp kỹ thuật cho các Nghị viện mới trong định hướng phát triển mới. Năm 2003, Liên minh thành lập Quỹ Nghị viện Toàn cầu vì Dân chủ nhằm thu hút nguồn lực riêng cho hoạt động liên quan đến dân chủ của Liên minh.

Trong thời kỳ này, vấn đề thiếu dân chủ trong quan hệ quốc tế và sự cần thiết phải xác lập quan hệ giữa Liên minh và Liên Hợp Quốc thu hút sự quan tâm của chính giới, mở ra cuộc tranh luận về vai trò của Liên minh đối với quá trình cải cách của Liên Hợp Quốc trong tương lai. Chính vì vậy Liên minh tăng cường hợp tác với Liên Hợp Quốc thông qua thỏa thuận ký kết Hiệp định hợp tác Liên minh và Liên Hợp Quốc (1996) và các thỏa thuận hợp tác khác với các cơ quan chuyên ngành, các chương trình của Liên Hợp Quốc như: IPU cũng đã mở Văn phòng của Liên minh tại Liên Hợp Quốc, đặt tại New York (1998) và được công nhận tư cách Quan sát viên tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, lưu hành tài liệu chính thức tại Đại hội đồng (2002) v.v. Những hoạt động này góp phần nâng cao đáng kể vị thế và uy tín của Liên minh trong đời sống quốc tế.

Uy tín của Liên minh trong những năm đầu thế kỷ XX chủ yếu nhờ sự phát triển cách mạng, tiến bộ dựa trên các nghiên cứu khoa học của giới học giả là thành viên của IPU cùng với phong trào đấu tranh vì hòa bình. Trong khi đó ngày nay, khối lượng rất lớn công việc của Liên minh đã làm thay đổi sâu sắc hoạt động của các Nghị viện thành viên và gần như không gắn kết với giới học giả, giáo sư của các trường đại học. Hơn nữa, kết nối với xã hội dân sự chưa được quan tâm đúng mức. Một trở ngại nữa cũng hạn chế sáng kiến, đổi mới trong Liên minh có thể là do Liên minh có số lượng thành viên lớn, điều mà chúng ta đang phấn đấu suốt 50 năm qua. Những bất đồng, khác biệt vốn có giữa các nước phát triển và đang phát triển, vùng miền, giới cầm quyền đa số và thiểu số đối lập trong Nghị viện cũng là những khó khăn khiến Liên minh không đạt được những kết quả lớn hơn những gì các chính phủ đã đàm phán với nhau. Hơn nữa, Liên minh phải cạnh tranh với ngày càng nhiều các cơ chế hợp tác liên nghị viện, khu vực và quốc tế, các hiệp hội nghị viện...  

Bước tiến mới trong việc củng cố và mở rộng cơ cấu tổ chức

Năm 1894, Điều lệ đầu tiên của Hội nghị Liên nghị viện đã được thông qua. Điều lệ này quy định cơ cấu tổ chức của Hội nghị gồm: Đại hội đồng, cơ quan chính trị của Liên minh; Hội đồng Đại biểu với hai thành viên của mỗi nhóm Nghị viện; Văn phòng, với một đại diện của mỗi nhóm, là cơ quan quản lý và điều hành và một Chủ tịch điều hành Văn phòng. Ngày nay, thực hiện những nhiệm vụ này do Đại hội đồng (cơ quan chính trị), Hội đồng Điều hành (cơ quan điều hành), Ban Chấp hành và Ban Thư ký (phân chia nhiệm vụ, quản lý và điều hành) và Chủ tịch Liên minh Nghị viện Thế giới (người đứng đầu tổ chức chính trị và đương nhiên là Chủ tịch Hội đồng Điều hành).

Trong những năm 1970 và 1990, Liên minh sửa đổi, bổ sung Điều lệ và các Quy chế làm cơ sở pháp lý củng cố và mở rộng cơ cấu tổ chức và hoạt động của mình. Năm 1989 Liên minh thông qua Quy chế và Thủ tục của Ủy ban về quyền con người của các nghị sỹ, năm 1999, thông qua Quy chế về Hội nghị Nữ nghị sỹ và Quy chế của Ủy ban Điều phối Nữ nghị sỹ.

Vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, Liên minh tiến hành sửa đổi, bổ sung Điều lệ và các Quy chế về Đại hội đồng, Hội đồng Điều hành, các Ủy ban Thường trực, Ban Chấp hành và Ban Thư ký.

Năm 2014, Liên minh thông qua Quy chế và Quy định về hoạt động của Diễn đàn Nghị sỹ trẻ Liên minh Nghị viện Thế giới, tạo điều kiện thực hiện các quyết định và khuyến nghị của Liên minh về "sự tham gia của thanh niên trong quá trình dân chủ". Điều này thể hiện sự mở rộng và đa dạng hóa sự hiện diện của các nghị sỹ trẻ tại Đại hội đồng và các cuộc họp của Liên minh.

Sự phát triển thành viên qua 125 năm (1889-2014)

Qua hơn 125 năm hình thành và phát triển, số lượng các nghị viện thành viên của Liên minh qua các thời kỳ không ngừng được tăng lên, thể hiện sự phát triển của tổ chức này. Ban đầu, IPU chỉ có 9 nghị viện thành viên chủ yếu là các nước châu Âu, và có Hoa Kỳ (châu Mỹ) và Liberia (châu Phi). Đến năm 1908, Nhật Bản là quốc gia đầu tiên ở châu Á và năm 1913 và Úc là quốc gia đầu tiên ở Nam Thái Bình Dương tham gia Liên minh. Như vậy đến thời kỳ này Liên minh đã hội đủ “đại diện” của 5 châu lục. Do nhu cầu tăng cường liên kết, hợp tác đa phương phấn đấu vì hòa bình, phát triển đã tác động mạnh mẽ tới việc mở rộng thành viên của Liên minh. Đến tháng 10 năm 2014, Liên minh có 166 nghị viện thành viên (trong số 189 quốc gia trên thế giới) và 10 Hội đồng Nghị viện khu vực là thành viên liên kết.

Thành tựu và thách thức

Trong hơn 125 năm hình thành và phát triển, Liên minh Nghị viện Thế giới đã góp phần quan trọng trong việc tìm kiếm các biện pháp bảo vệ hoà bình, giải quyết xung đột giữa các quốc gia bằng hình thức trọng tài quốc tế và trung gian hoà giải, nhằm củng cố hòa bình, thúc đẩy đối thoại, phát triển luật pháp quốc tế và đẩy mạnh dân chủ.

Trong những năm 1970 và 1980, Liên minh đóng vai trò quan trọng trong quá trình hòa dịu ở châu Âu, thu hẹp khoảng cách bất đồng giữa hai khối Đông - Tây trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Năm 1997, Liên minh đã thông qua Tuyên ngôn về Dân chủ, xác định các tiêu chí cho Nghị viện dân chủ là:đại diện, minh bạch, dễ tiếp cận, có trách nhiệm và hiệu quả. Ngoài ra, Liên minh đã triển khai nhiều hoạt động góp phần thúc đẩy bảo vệ quyền con người, bình đẳng giới, tăng cường kết nối toàn cầu, đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hợp tác với các tổ chức quốc tế…

Trong bối cảnh phát triển ngày nay của thế giới, các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột quân sự vẫn liên tiếp xảy ra ở khu vực Trung Đông, châu Phi, Đông Âu v.v. Đặc biệt  gần đây, tổ chức phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) mới xuất hiện với nhiều hoạt động khủng bố dã man trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh thế giới. Ngăn ngừa chiến tranh, chiến đấu chống khủng bố - kẻ thù chung của nhân loại và gìn giữ hòa bình sẽ vẫn là yêu cầu cấp thiết đối với Liên minh Nghị viện Thế giới. Ngoài ra, việc đảm bảo sự kết nối với cử tri, đảm bảo quyền con người, bình đẳng giới, quá trình thúc đẩy quản trị tốt và tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Liên minh vẫn còn là những thách thức đang đặt ra.

Liên minh nghị viện thế giới và bối cảnh hiện nay (II) - ảnh 1

Bối cảnh chống khủng bố hiện nay và vai trò của Liên minh Nghị viện thế giới- IPU

Nền dân chủ quốc tế đã tiến triển đáng kể từ năm 1889, phần lớn là do Liên minh Nghị viện Thế giới đóng vai trò trung tâm trong việc hỗ trợ thiết lập các hình thức quản trị dân chủ ở các cấp quốc gia và quốc tế. Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Liên minh đã thể hiện cam kết chắc chắn nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh, dân chủ, nhân quyền và phát triển bền vững. Trong một thế giới đang thay đổi, hơn 125 năm sau kể từ khi Liên minh Nghị viện Thế giới ra đời, tầm nhìn của các nhà sáng lập Liên minh vẫn còn nguyên giá trị và đúng đắn hơn bao giờ hết.

Phạm Quốc Bảo

Xây dựng con người và công nghệ hướng tới một Việt Nam bao trùm số

Nhằm tạo cầu nối giữa những người sáng tạo công nghệ và các nhóm yếu thế, “Sáng kiến công nghệ bao trùm” giúp họ hòa nhập và phát triển, từ đó thúc đẩy xã hội công bằng và bền vững.

Đề xuất miễn visa cho khách thị trường trọng điểm

Bà Rịa - Vũng Tàu đề xuất miễn thị thực nhập cảnh đối với khách ở các thị trường trọng điểm như châu Âu, Bắc Mỹ, Australia.

Khách nhiễm Covid-19 cố tình giấu bệnh lên máy bay có thể bị cấm bay vĩnh viễn

Trước khi lên máy bay khách có xét nghiệm xác nhận bị nhiễm Covid-19 nhưng không khai báo trung thực có thể bị Vietnam Airlines cấm bay vĩnh viễn trên các chuyến bay của hãng.

VOV bổ nhiệm Phó giám đốc đài truyền hình kỹ thuật số VTC

Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam đã quyết định bổ nhiệm ông Lương Minh Đức giữ chức Phó GĐ Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, đồng thời tái bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Bình tiếp tục giữ chức Phó GĐ Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC.

Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ làm trưởng đoàn ĐBQH TP Hà Nội

Sáng 18/ 2, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội tổ chức họp đoàn kiện toàn chức danh Trưởng đoàn.

Bộ TT&TT điều động và bổ nhiệm 13 cán bộ lãnh đạo chủ chốt

Nhận định lần trao các quyết định giao nhiệm vụ quy mô lớn này là một sự kiện lịch sử của Bộ TT&TT, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, với vị trí, nhiệm vụ mới, 13 cán bộ lãnh đạo các đơn vị sẽ có năng lượng mới để đóng góp tốt hơn cho Bộ, đất nước.

Tọa đàm Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng CSVN với sự nghiệp văn hóa-VHNT VN

Buổi tọa đàm với diễn giả là GS. Phong Lê - Nguyên Viện trưởng Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, diễn ra lúc 9h00 ngày 03/02/2020 tại Tầng 1 Tòa nhà chính Thư viện Quốc gia Việt Nam, 31 Tràng Thi, Hà Nội.

Đắk Lắk: Bệnh nhân bị đồn nhiễm virus corona là một tiếp viên hàng không

Liên quan đến thông tin trên mạng xã hội cho là "có người nhiễm corona tại Đắk Lắk", sáng 28/1, lãnh đạo BVĐK vùng Tây Nguyên cho biết, có một bệnh nhân bị sốt đang được điều trị tuy nhiên chưa thể kết luận có nhiễm virus corona hay không.

Đà Nẵng: Xuân 2020 hướng tới 22 dự án với tổng vốn đầu tư 1,7 tỉ USD

Các cơ quan hữu quan của Đà Nẵng đẩy nhanh việc giải quyết thủ tục đầu tư đối với các dự án đang xúc tiến để tại “Tọa đàm Mùa xuân 2020” có thể hướng tới 22 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn khoảng 1,715 tỉ USD

Tân Giám đốc Sở KH&CN Hà Nội Nguyễn Hồng Sơn

Sáng nay 20/1, Phó Chủ tịch UBND TP Ngô Văn Quý trao quyết định của Chủ tịch UBND TP Nguyễn Đức Chung bổ nhiệm Giám đốc Sở Khoa học & Công nghệ Hà Nội cho ông Nguyễn Hồng Sơn.

Đang cập nhật dữ liệu !