Đến năm 2015, nợ công không quá 65% GDP
Báo cáo về tình hình nợ công của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ nêu, tổng số dư nợ công đến ngày 31/12/2011 bằng 55,4% GDP (giảm 1,9% so với năm 2010), chủ yếu là nhờ thực hiện chính sách tài khoá chặt chẽ, giảm mức bội chi ngân sách nhà nước, đồng thời Quốc hội, Chính phủ đã quyết định ưu tiên bố trí một phần từ nguồn tăng thu ngân sách hàng năm để tăng chi trả nợ của Chính phủ, giảm nợ công.
Trong cơ cấu nợ công, báo cáo chỉ rõ các khoản nợ trực tiếp của Chính phủ chiếm 78% tổng số dư nợ công và bằng 43,1% GDP; nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 21% tổng số dư nợ công và bằng 11,7% GDP; nợ chính quyền địa phương chiếm khoảng 1,0% tổng số dư nợ công và bằng 0,5% GDP.
![]() |
Nợ công của Việt Nam đến 2015 không quá 65% GDP |
Về cơ cấu các chủ nợ, các nhà đầu tư trái phiếu Chính phủ trong nước chiếm 28%; trong số các chủ nợ nước ngoài thì Nhật Bản vẫn là chủ nợ lớn nhất, chiếm 17%, Ngân hàng thế giới chiếm 13%, Ngân hàng Phát triển châu Á chiếm 8% và còn lại từ các chủ nợ khác.
Theo định hướng vay và trả nợ công đến năm 2015 của Chính phủ, vay trong và ngoài nước để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước theo hướng giảm dần bội chi ngân sách nhà nước, phấn đấu đến năm 2015 (tính cả trái phiếu Chính phủ) dưới 4,5% GDP. Tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ để thực hiện chương trình đầu tư cho các công trình giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục để cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn trái phiếu giai đoạn 2011-2015 với tổng mức là 225 nghìn tỷ đồng.
Bảo lãnh Chính phủ để thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu, tín dụng chính sách của nhà nước và các dự án quan trọng theo hướng chọn lọc mục tiêu. Vay và trả nợ của chính quyền địa phương để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương thực hiện trong hạn mức vay hàng năm theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và Luật quản lý nợ công.
Báo cáo chỉ rõ nợ công (bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) đến năm 2015 không quá 65% GDP, trong đó dư nợ chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm không quá 25% và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia hàng năm dưới 25% giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Đảm bảo chỉ tiêu tỷ lệ dự trữ ngoại hối nhà nước so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%.
Chính phủ cũng cho biết sẽ thực hiện công khai, minh bạch thông tin về nợ thông qua chế độ báo cáo, đánh giá về tình hình huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và trả nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia theo định kỳ hoặc đột xuất, phù hợp với quy định của Luật quản lý nợ công và thông lệ quốc tế.