Càng vay nợ nước ngoài, uy tín của ngân hàng càng tăng?
Trong các năm gần đây, xu hướng vay vốn tài trợ dài hạn từ các tổ chức tài chính quốc tế đã trở nên ngày càng phổ biến ở các ngân hàng Việt Nam.
Lợi ích cho cả hai bên
Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), các hợp đồng vay vốn dài hạn quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai bên. Từ phía các tổ chức tài chính quốc tế, việc cấp vốn cho các ngân hàng tại các nước đang phát triển là cách thức hỗ trợ cho các mục tiêu hỗ trợ phát triển của họ.
Các nguồn vốn do các tổ chức này cấp thường được phục vụ cho các khoản vay có mục đích tạo ra nhiều giá trị cho xã hội, kinh tế, bao gồm việc thúc đẩy nền kinh tế tư nhân và cho vay các đối tượng ít có điều kiện tiếp cận nguồn vốn ngân hàng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đơn cử như các khoản vay do Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) cấp, phần lớn nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ gia đình.
Theo ngân hàng VIB, khoản vay 185 triệu USD do IFC cấp cho ngân hàng này được kỳ vọng sẽ tăng gấp đôi dư nợ cho vay phân khúc doanh nghiệp vừa và nhỏ trong vòng 5 năm tới.
Đối với ngân hàng SHB, ngân hàng này đang có khoản vay 20 triệu USD kỳ hạn 5 năm do Ngân hàng Đầu tư Quốc tế (IIB) cấp nhằm hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cũng như hoạt động xuất nhập khẩu với các nước thành viên của IIB. SHB cũng vay 20 triệu Euro từ Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (IBEC) để thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, các giao dịch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các nước thành viên của IBEC.
Khoản vay 185 triệu USD do IFC cấp cho VIB được kỳ vọng sẽ tăng gấp đôi dư nợ cho vay phân khúc doanh nghiệp vừa và nhỏ trong vòng 5 năm tới. |
Từ phía các ngân hàng trong nước, việc vay vốn nước ngoài có thể giúp tăng cường thanh khoản và có được sự linh động hơn trong cơ cấu vốn.
Hiện nay, do nguồn vốn trong nước và tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với các ngân hàng còn hạn chế, nhất là đối với các ngân hàng đã hết room ngoại, việc huy động vốn từ nước ngoài sẽ giúp các ngân hàng tiếp cận nguồn vốn phong phú hơn, với chi phí rẻ hơn.
Cũng theo VDSC, việc huy động nguồn vốn dài hạn từ nước ngoài cũng sẽ giúp cho các ngân hàng cải thiện hệ số vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn theo quy định tại Thông tư 16/2018/TT-NHNN, trong đó quy định hệ số này phải giảm dần từ 45% xuống còn 40% từ ngày 01/01/2019.
Theo đó, ngoài việc giữ lại lợi nhuận và phát hành trái phiếu dài hạn thì việc vay vốn tài trợ từ nước ngoài cũng là một cách hiệu quả để các ngân hàng tăng cường huy động trung – dài hạn và cải thiện hệ số nêu trên.
Một lợi ích khác là các khoản vay dài hạn có thể góp phần cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng. Thông tư 41/2016/ TT-NHNN (có hiệu lực từ ngày 01/01/2020), một trong hai văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện tiêu chuẩn Basel 2, quy định rằng các ngân hàng trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì hệ số CAR ở mức tối thiểu 8%.
VDSC cho rằng, với tình hình vốn hiện nay, các ngân hàng sẽ phải tích cực huy động vốn trong năm 2019, dù là để đáp ứng tuân thủ theo Thông tư 41 đúng hạn hay để nâng bộ đệm vốn nhằm đảm bảo khả năng duy trì tăng trưởng cao trong các năm sau.
Trong lúc chờ đợi việc tăng vốn Cấp 1 vốn còn phụ thuộc nhiều yếu tố mới thực hiện được, nhất là với các ngân hàng quốc doanh, các ngân hàng có thể tiến hành vay vốn tài trợ dài hạn từ nước ngoài để góp phần cải thiện vốn Cấp 2.
Thêm vào đó, các ngân hàng cần phải duy trì một nguồn dự phòng vốn ngoại tệ để phục vụ cho nhu cầu vay ngoại tệ của các doanh nghiệp trong nước.
Trong diều kiện trần lãi suất huy động bằng ngoại tệ được quy định ở mức 0%, việc các ngân hàng huy động tiền gửi bằng ngoại tệ là vô cùng khó khăn.
Lợi ích cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng của việc vay vốn dài hạn nước ngoài là việc được chấp thuận vay cũng sẽ đem lại tác động tích cực đến triển vọng của các ngân hàng trong tương lai.
Các ngân hàng được nhận tài trợ sẽ tạo được tiếng vang tốt, nâng cao được mức tín nhiệm và vị thế không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thị trường quốc tế. Thông thường một khi đã đồng ý tài trợ, các tổ chức cho vay cũng sẽ tiếp tục cho vay trong các năm sau, nhờ đó ngân hàng đi vay sẽ có được nguồn vốn ổn định dài hạn.
Một số khoản vay tài trợ dài hạn của ngân hàng Việt Nam trong 3 năm qua. Nguồn: VDSC. |
Ngoài ra, các tổ chức cho vay còn tư vấn cho ngân hàng đi vay về cách thức quản lý vận hành, quản lý rủi ro và nâng cao năng lực phát triển. Ví dụ như trường hợp của ngân hàng OCB, việc vay vốn chỉ là một phần trong thỏa thuận hợp tác với IFC, trong đó bao gồm hạn mức cho vay ngắn hạn, tư vấn quản lý, và chương trình hỗ trợ triển khai các phương án nhằm nhanh chóng bắt kịp với các tiêu chuẩn của khu vực và toàn cầu.
Đối với SHB, IIB cũng sẽ chia sẻ nhiều thông tin và kinh nghiệm trong việc cải thiện hiệu quả kinh doanh và nâng cao năng lực quản lý. Đối với Vietinbank, khoản vay được cấp bởi 8 ngân hàng Đài Loan mở ra cơ hội hợp tác sâu hơn với họ.
Về BIDV, khoản vay 300 triệu USD được cấp bởi ADB gần đây cũng sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trong phân khúc bán lẻ và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các thách thức khi vay vốn quốc tế
Để được chấp thuận vay, các ngân hàng sẽ phải chứng minh năng lực vận hành và tiềm năng phát triển của họ có thể thỏa mãn kỳ vọng cao của tổ chức cho vay.
Quá trình đàm phán cũng có thể kéo dài do thông thường việc vay vốn của các tổ chức tài chính nước ngoài là hiếm có tiền lệ trước đây.
Thêm vào đó, việc hệ thống luật pháp và các quy định pháp lý khác nhau giữa các quốc gia cũng có thể làm chậm quá trình đàm phán và triển khai các giao dịch tài trợ vốn này.
Khi đã được chấp thuận cho vay thì các ngân hàng đi vay sẽ phải quản lý rủi ro biến động tỷ giá liên quan đến khoản vay.
Trong một số trường hợp, nếu khoản vay được chỉ định phục vụ cho một số mục đích nhất định, các ngân hàng còn có thể gặp khó khăn trong việc tìm các trường hợp giải ngân thỏa mãn mục đích đặt ra.
Tuy nhiên, việc xin vay vốn tài trợ dài hạn từ các tổ chức quốc tế, dù có thể có một số khó khăn, nhưng với những lợi ích đã nêu, việc xin vay vốn dài hạn (cùng với việc phát hành trái phiếu dài hạn) là một cách hiệu quả để bổ sung nhu cầu nguồn vốn trung và dài hạn của các ngân hàng.