Vụ án chồng trộm tiền vợ và bài học cho cơ quan tố tụng
Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, vẫn có những vụ án oan làm tổn hại nặng nề về tinh thần và vật chất cho đương sự, gây bức xúc trong dư luận.
Trong loạt bài này, tác giả nêu một vụ án oan sai, một số vụ án hình sự đã và đang chuẩn bị xét xử lại ở Tây Ninh nhưng có dấu hiệu oan sai, với mong muốn qua đó giúp các cơ quan chức năng cẩn trọng, khách quan để có những quyết định đúng đắn, xử lý nghiêm người phạm tội và không xử oan người vô tội.
Ông Nguyễn Thanh Cần với xấp hồ sơ yêu cầu bồi thường. |
Trộm tiền... vợ
Ngày 6.12.2013, ông Nguyễn Thanh Cần (ngụ ấp Ninh Hoà, xã Ninh Thạnh, thị xã Tây Ninh (nay là thành phố Tây Ninh) viết đơn gửi Báo Tây Ninh cho biết, ông là người bị oan trong vụ án “trộm cắp tài sản” bị Cơ quan điều tra giam giữ 376 ngày.
Trước đó, ngày 8.11.2013, ông đã viết đơn đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Tây Ninh bồi thường thiệt hại do oan sai trong tố tụng và khôi phục danh dự, nhân phẩm cho ông nhưng cơ quan này không giải quyết. Đã hơn 1 năm qua, ông Cần vẫn tiếp tục “đeo đuổi” việc yêu cầu VKSND tỉnh bồi thường thiệt hại.
Ông Cần nhớ lại, ngày 3.7.2013, chủ tọa phiên toà, thẩm phán Phạm Thị Thanh Giang- TAND tỉnh tuyên ông “không phạm tội trộm cắp tài sản” của vợ ông, sau đó ra Quyết định số 09/2013/HSST trả tự do cho ông, từ thời điểm đó ông chính thức được minh oan. “Tôi là một người lính, đã từng tham gia chiến đấu ở chiến trường Campuchia và được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Đây là niềm vinh dự và tự hào của tôi trong suốt thời gian qua.
Bỗng dưng tôi bị bắt giam, vì vậy khi được toà tuyên vô tội, tôi dường như “chết đi sống lại”. Nay tôi chỉ mong được cơ quan làm tôi bị oan bồi thường theo quy định của Nhà nước và công bố minh oan cho tôi tại địa phương để tôi không phải xấu hổ với mọi người” – ông Cần tâm sự.
Thế nhưng sau hơn một năm đến cơ quan công quyền đòi quyền lợi chính đáng của mình, ông Cần vẫn chưa được cơ quan này bồi thường và làm các thủ tục cần thiết để minh oan cho ông sau thời gian hơn 1 năm bị giam cầm.
Bản án số 52/2012/HSST ngày 29.8.2012 do thẩm phán Nguyễn Văn Tông chủ toạ phiên toà xét xử đã xác định ông Cần “trộm cắp tài sản”, thể hiện như sau: Năm 1988, ông Cần kết hôn với bà Nguyễn Thị Mén. Hai vợ chồng kinh doanh xe tải và làm vườn mãng cầu, tích luỹ được 10 lượng vàng 9999, 3,97 chỉ vàng 18K và 5 chỉ vàng 24K. Tuy nhiên, thời gian sau đó, ông Cần không quan tâm đến việc làm ăn của gia đình nên hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, dẫn đến sống ly thân, rồi sau đó họ quay lại sống chung.
Trong thời gian đó, bà Mén một mình làm lụng tích luỹ tài sản riêng và cho tiền ông Cần tiêu xài hằng ngày. Năm 2000, bà Mén giao rẫy cao su cho ông Cần khai thác lấy tiền tiêu xài, còn bà tiếp tục quản lý vườn mãng cầu, kinh doanh xe tải, tích luỹ mua được 16 lượng vàng 9999, 10,97 chỉ vàng 24K và 12,42 chỉ vàng 18K. Số tài sản này bà Mén quản lý cất giữ.
Đầu tháng 1.2012, ông Cần và bà Mén sống ly thân, dù cả hai sống chung một nhà nhưng mỗi người một phòng riêng. Ngày 29.4.2012, bà Mén hốt hụi được 97 triệu đồng, sau đó mượn của một chủ vựa mãng cầu 100 triệu đồng. Tất cả vàng, tiền, bà Mén cất trong két sắt, để trong trong phòng ngủ của mình.
Khoảng 17 giờ ngày 20.5.2012, khi đi rẫy về, biết vợ và con chở mãng cầu đi thành phố Hồ Chí Minh bán, ông Cần vặn mạnh cửa phòng của bà Mén bung ra, sau đó lấy 1 cây kim và 1 cây vít đục két sắt lấy 26 lượng vàng 9999, 15,97 chỉ vàng 24K, 16,39 chỉ vàng 18K và 197 triệu đồng (tổng trị giá được giám định trên 1,192 tỷ đồng). Lúc lấy tài sản, ông Cần dùng cưa sắt cưa cửa sổ phòng, tạo hiện trường giả.
Ông Cần xài hết 200 ngàn đồng trong số tiền trộm được của vợ, số tiền còn lại đem gửi cho bà Lâm Nguyệt Ứng ở ấp Ninh Tân, còn số vàng ông mang đến chôn giấu ở vườn cao su của gia đình. Khoảng 00 giờ ngày 21.5.2012, khi về nhà, bà Mén phát hiện mất tài sản, hỏi ông Cần thì ông nói không biết, nên bà Mén trình báo công an. Quá trình điều tra, ông Cần thừa nhận hành vi phạm tội của mình và hướng dẫn cơ quan điều tra đến nơi cất giấu tài sản để thu hồi.
Với hành vi trên, VKSND tỉnh truy tố ông Cần phạm tội “trộm cắp tài sản” theo Điểm a Khoản 4 Điều 138 BLHS. Tại phiên toà sơ thẩm, HĐXX tuyên bị cáo Cần phạm tội “trộm cắp tài sản” phạt bị cáo Cần 7 năm tù. Ông Cần kháng cáo.
Tài sản chung nên không nói... là trộm được
Cuối năm 2012, Toà phúc thẩm TAND Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh tuyên huỷ án, trả hồ sơ để cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại.
Ngày 3.7.2013, TAND tỉnh xét xử sơ thẩm lại, do thẩm phán Phan Thị Thanh Giang làm chủ toạ phiên toà. Tại phiên xử này, toà nhận định, vợ chồng ông Cần có mâu thuẫn, bà Mén là người quản lý tài sản, ông Cần có hành vi đục két sắt lấy tiền, vàng (khoảng 1,389 tỷ đồng- tăng lên so với lần xét xử đầu) tiêu xài cho bản thân nhưng về khách thể, việc ông Cần chiếm đoạt tiền, vàng là tài sản chung của vợ chồng, tài sản này hai vợ chồng “không có thoả thuận với nhau về việc chia tài sản chung, cũng không có văn bản, quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc phân chia tài sản của vợ chồng.
Như vậy, đây là tài sản chung hợp nhất chưa chia, theo Điều 217 BLDS là sở hữu chung, trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung… Bà Mén chỉ là người cất giữ tài sản chung của vợ chồng, trong số tài sản bị cáo chiếm đoạt có phần của bị cáo nhưng cơ quan điều tra không chứng minh được tài sản riêng của bà Mén là bao nhiêu và số tiền bị cáo chiếm đoạt là bao nhiêu”. Trên cơ sở lập luận trên, HĐXX cho rằng chưa có căn cứ kết luận phạm tội nên tuyên ông Cần không phạm tội “trộm cắp tài sản”.
Ngày 15.7.2013, VKSND tỉnh có Kháng nghị số 01/QĐ/KNPT đề nghị Toà phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh huỷ toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm trên của TAND tỉnh Tây Ninh để xét xử sơ thẩm lại ở cấp sơ thẩm theo hướng tuyên bố ông Cần phạm tội “trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên, ngày 9.10.2013, Toà phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án trên với lý do, tại phiên toà này, vị đại diện VKS quyết định rút Kháng nghị số 01/QĐ/KNPT ngày 15.7.2013 của VKSND tỉnh Tây Ninh.
Hành trình đi đòi bồi thường oan sai
Sau khi có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Toà phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8.11.2013, ông Cần đã mang đơn đến VKSND tỉnh đề nghị bồi thường do oan sai trong tố tụng theo luật định (ông Cần bị giam từ ngày 22.6.2012 đến ngày 3.7.2013). Ông được ông Đ.V.Đ tiếp và ghi biên nhận. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian khá lâu, ông Cần vẫn không nhận được phản hồi. Vì vậy, ông tiếp tục gửi đơn yêu cầu bồi thường qua đường bưu điện và các cơ quan có trách nhiệm khác của tỉnh nhưng vẫn không thấy hồi âm.
Ngày 11.4.2014, ông Cần làm đơn kiện gửi đến TAND thành phố Tây Ninh yêu cầu VKSND tỉnh bồi thường và được cán bộ trực tiếp nhận đơn nhưng khá lâu không thấy giải quyết. Sau đó, ông gửi đơn đến Cục Bồi thường Nhà nước thuộc Bộ Tư pháp. Ngày 13.5.2014, Cục Bồi thường Nhà nước có Văn bản số 148/BTNN-TT gửi Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế - chức vụ, VKSND tối cao với nội dung: “Vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại (của ông Cần) trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm quản lý của VKSND tối cao.
Do vậy, Cục Bồi thường Nhà nước kính chuyển đơn của ông Cần đến Quý vụ theo quy định tại Điều 11 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về thực hiện nhiệm vụ phối hợp trong quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng để Quý vụ kiểm tra vụ việc, tham mưu cho lãnh đạo VKSND tối cao chỉ đạo cho cơ quan có thẩm quyền trả lời hoặc giải quyết yêu cầu của người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật”.
Ngày 23.7.2014, ông Cần nhận được văn bản thông báo của TAND thành phố Tây Ninh trả lại đơn kiện với lý do: “VKSND tỉnh Tây Ninh chưa thụ lý giải quyết đơn yêu cầu của ông Cần theo quy định tại Điều 16,17,18,19, 20 Luật Bồi thường trách nhiệm của Nhà nước do ông Cần chưa đủ điều kiện khởi kiện tại Toà án”. Vì vậy, ngày 12.11.2014, ông Cần tiếp tục đến VKSND tỉnh gửi đơn yêu cầu bồi thường và trưng ra văn bản trên của toà án nên được cán bộ nơi đây tiếp nhận.
Sau đó, ngày 23.1.2015, VKSND tỉnh có Thông báo số 44/TB-VKS-P1 thụ lý đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo đơn yêu cầu cầu bồi thường, ông Cần đề nghị VKSND tỉnh bồi thường thu nhập thực tế bị mất là 150,4 triệu đồng, bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần là 42,864 triệu đồng và thiệt hại sức khoẻ là 50 triệu đồng. Tổng cộng là 243.264.000đ.
Cần sớm giải quyết bồi thường theo quy định
Tiếp xúc với chúng tôi, ông Cần rất bức xúc khi cơ quan có trách nhiệm bồi thường cứ nhùng nhằng, không chịu tiến hành giải quyết bồi thường theo luật định, làm cho ông phải tốn nhiều công sức đi lại, viết đơn gửi nhiều nơi để khiếu nại. Ông Cần mong muốn cơ quan có trách nhiệm sớm hoàn tất các thủ tục bồi thường theo quy định để ông và đơn vị có trách nhiệm bồi thường ngồi lại với nhau trên tinh thần cảm thông, chia sẻ những thiệt hại và lỗi của nhau để có kết quả cuối cùng.
Theo ông Cần, những yêu cầu bồi thường của ông chỉ “tương đối” so với những gì ông bị thiệt hại, chứ không hề nhân sự sai trái của cơ quan Nhà nước mà yêu cầu quá đáng. Trên tinh thần ấy mà ông không yêu cầu luật sư tham gia việc đòi bồi thường này.
Tại Điều 8 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định cơ quan có trách nhiệm bồi thường có nhiệm vụ “tiếp nhận, thụ lý đơn yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại; xác minh thiệt hại, thương lượng với người bị thiệt hại, ra quyết định giải quyết bồi thường; khôi phục hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại…”. Tại Điều 7 của Luật này cũng nêu rõ, việc giải quyết bồi thường phải tuân theo các nguyên tắc: “Kịp thời, công khai, đúng pháp luật; được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ…”.
Thiết nghĩ, việc thực thi công vụ trong hoạt động tố tụng (cũng như các lĩnh vực khác), việc tiến hành tố tụng có những sai sót (do nhiều nguyên nhân, không tư lợi) là bình thường, điều thiết yếu là các cá nhân, tổ chức nhận ra sai sót để sửa chữa, làm bài học chung trong công tác của mình mới là điều quan trọng.
Đức Tiến/Báo Tây Ninh (Còn nữa)
Điều9. Thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường
1. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành việc xác minh thiệt hại để làm căn cứ xác định mức bồi thường theo quy định tại Điều 18 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
2. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc xác minh thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành thương lượng với người bị thiệt hại theo quy định tại Điều 19 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
3. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc thương lượng, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải hoàn thành dự thảo quyết định giải quyết bồi thường. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan có trách nhiệm bồi thường có thể gửi dự thảo quyết định giải quyết bồi thường để lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan.
4. Căn cứ vào kết quả xác minh thiệt hại, thương lượng với người bị thiệt hại và ý kiến của các cơ quan có liên quan (nếu có), cơ quan có trách nhiệm bồi thường ban hành quyết định giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 20 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
5. Khi quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải thực hiện thủ tục cấp và chi trả tiền bồi thường theo quy định tại Điều 54 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
(Trích Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 3.3.2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước).