Đà Nẵng “tố” đơn vị lập dự thảo vận hành thủy điện
Được sự đồng ý của UBND TP Đà Nẵng, Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão – Tìm kiếm cứu nạn (PCLB-TKCN) Đà Nẵng vừa có công văn 08/PCLB gửi Bộ TN-MT “tố” đơn vị tư vấn lập dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa thủy điện A Vương, Đăk Mi 4 và Sông Tranh 2 chỉ biết đặt lợi ích của thủy điện lên trên hết, bất chấp lợi ích của gần 1,7 triệu dân sống ở hạ du sông Vu Gia (phía Bắc tỉnh Quảng Nam và TP Đà Nẵng).
Ông Huỳnh Vạn Thắng bày tỏ thái độ quyết liệt đối với vấn đề xả nước về hạ du của thủy điện Đăk Mi4 (Ảnh: HC) |
Ngày 20/1, PV Infonet đã có cuộc trao đổi với ông Huỳnh Vạn Thắng, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT, Phó Ban Thường trực Ban chỉ huy PCLB – TKCN TP Đà Nẵng để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề nêu trên.
Thưa ông, có điều gì trong dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 khiến Đà Nẵng phản ứng quyết liệt như vậy?
Ông Huỳnh Vạn Thắng: Thứ nhất là về quy định mực nước tại Ái Nghĩa. Dự thảo quy trình đã khống chế mực nước tại đây (HÁi Nghĩa - cao trình Ái Nghĩa) = 2,53m để làm cơ sở cho vận hành. Cụ thể trong thời gian bình thường: Trường hợp mực nước Trạm thủy văn Ái Nghĩa nhỏ hơn 2,53m, hồ Đăk Mi4 vận hành xả trả nước về lại sông Vu Gia với lưu lượng bằng 12,5 m3/s; trường hợp mực nước Trạm thủy văn Ái Nghĩa từ 2,53 – 2,67m, hồ Đăk Mi4 xả về lại sông Vu Gia với lưu lượng bằng 8m3/s; trường hợp mực nước Trạm thủy văn Ái Nghĩa lớn hơn 2,67m, hồ Đăk Mi4 xả về lại sông Vu Gia với lưu lượng bằng 5m3/s.
Trị số 2,53m là giá trị trung bình của mực nước trung bình tháng có dòng chảy nhỏ nhất trong năm trong liệt tài liệu từ năm 1976 đến nay. Nghĩa là mỗi năm lấy một tháng có dòng chảy trung bình thấp nhất, bất kể rơi vào tháng nào, có thể tháng 3, có thể tháng 5, có thể tháng 7… Trị số 2,53m là giá trị trung bình của từng tháng có dòng chảy nhỏ nhất trong năm.
Ai cũng biết rằng thời kỳ thiếu nước, cạn kiệt nguồn nước rơi vào lúc xuất hiện dòng chảy nhỏ nhất trong năm; và khi chọn mực nước tại Trạm thủy văn Ái Nghĩa bằng 2,53m làm cao trình mực nước khống chế thì cũng đồng nghĩa với việc bắt hạ du sông Vu Gia luôn luôn ở trong trạng thái thiếu nước, cạn kiệt nguồn nước.
Dự thảo quy trình quy định khi HÁi Nghĩa nhỏ hơn giá trị 2,53m, tức là hạ du đang bị thiếu nước nghiêm trọng, thì hồ Đăk Mi4 chỉ xả trả lại sông Vu Gia 12,5 m3/s. Khi HÁi Nghĩa từ 2,53m đến 2,67m (chỉ cao hơn 0,14m), tức là hạ du đang bị thiếu nước nặng, thì hồ Đăk Mi4 chỉ xả trả lại sông Vu Gia 8 m3/s.
Theo tính toán, thủy điện Đăk Mi4 đã lấy đi trong mùa cạn trung bình hàng năm 1.200 triệu m3 nước của sông Vu Gia. Trong khi đó hồ A Vương chỉ mới bổ sung lại Whi = 266 triệu m3. Đến khi đi vào vận hành (cuối năm 2014), hồ Sông Bung 4 cũng chỉ bổ sung thêm được 234 triệu m3 (quy hoạch được duyệt đến 468 triệu m3, nhưng xây dựng chỉ có 234 triệu m3, giảm đi 50% dung tích do không đủ nguồn nước). Có nghĩa là khi xây dựng được quy trình vận hành tối ưu nhất thì hạ du sông Vu Gia trong mùa cạn vẫn thiếu đến 700 triệu m3 (hiện nay đang thiếu gần 1 tỉ m3 nước) so với điều kiện tự nhiên không có thủy điện trước đây.
Khi khống chế mực nước tại Ái Nghĩa bằng 2,53m, có nghĩa là gần như thủy điện Đăk Mi4 sẽ không xả trả nước lại cho sông Vu Gia bất chấp hạ du thiếu nước, ngoại trừ 5m3/s để duy trì dòng chảy trên đoạn sông chết từ thủy điện Đăk Mi4 đến Bến Giằng (huyện Nam Giang, Quảng Nam). Điều này là đi ngược lại ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu thủy điện Đăk Mi4 phải xả trả lại sông Vu Gia 25 m3/s.
Như vây, đơn vị tư vấn lập dự thảo quy trình chỉ biết đặt lợi ích của thủy điện lên trên hết, bất chấp lợi ích của gần 1,7 triệu người dân sống ở hạ du sông Vu Gia (huyện Đại Lộc, huyện Điện Bàn, TP Hội An - Quảng Nam và TP Đà Nẵng) luôn phải đối mặt với thiếu nước, cạn kiệt nguồn nước, đi ngược lại ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu phải đặt lợi ích hạ du lên trên tất cả trong việc lập quy trình vận hành hồ chứa nước, thậm chí vi phạm nghiêm trọng luật pháp.
Xin ông nói rõ thêm về việc “vi phạm nghiêm trọng luật pháp”?
Ông Huỳnh Vạn Thắng: Với việc đẩy hạ du vào thế khó khăn trên, dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 đã vi phạm nghiêm trọng Luật Tài nguyên nước tại Khoản 2, Khoản 5, Khoản 7, Khoản 8, Điều 3 về nguyên tắc quản lý, bảo vệ khai thác sử dụng Tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; Khoản 1, Điều 9 về các hành vi bị nghiêm cấm; Khoản 1, Khoản 2, Điều 54 về điều hành, phân phối tài nguyên nước; khoản 1, Điều 55 về chuyển nước lưu vực sông; Khoản 1, Điều 61 về phòng chống xâm nhập mặn.
Ngoài ra còn vi phạm khoản 3, Điều 60 về phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo. Trong đó nêu rõ: Quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa phải đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu phòng chống lũ, lụt, hạn hán, thiếu nước cho hạ du và bố trí dung tích để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ của hồ chứa, bao gồm cả dung tích để phòng, chống lũ, an toàn cấp nước trong điều kiện thời tiết bình thường và điều kiện tính bất thường, biến động về chất lượng nước có tính đến yếu tố biến đổi khí hậu.
Lúc nãy ông nói quy định mực nước tại Ái Nghĩa trong dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 là điểm thứ nhất khiến TP Đà Nẵng phản ứng. Vậy là còn thêm những điểm khác nữa?
Ông Huỳnh Vạn Thắng: Đúng vậy. Điều tiếp theo mà TP Đà Nẵng kết sức quan tâm là đề nghị mực nước khống chế tại Trạm thủy văn Ái Nghĩa trong dự thảo này. Có thể nói đơn vị tư vấn lập Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 còn mắc phải một sai lầm lớn là thiếu thực tế.
Trong 2 năm qua, do có sự thay đổi dòng chảy trên sông Vu Gia tại ngay thượng lưu điểm chia nước về sông Quảng Huế và sông Ái Nghĩa đã gây ra sự thay đổi rất lớn trong phân phối dòng chảy mùa cạn của sông Vu Gia về sông Quảng Huế (đổ về sông Thu Bồn) và sông Ái Nghĩa.
Trước đây, tỉ lệ về sông Quảng Huế chỉ 20% và sông Ái Nghĩa 80%. Nay tỉ lệ này đã lên 40% và 60%. Điều này đã làm cho đáy sông Quảng Huế bị xói sâu hơn và đáy sông Ái Nghĩa bị bồi lấp nặng, khiến cho khi mực nước ở cùng một cao trình thì lưu lượng trên sông bị bồi lấp so với trước đây đã giảm đi rất nhiều.
Vậy TP Đà Nẵng có những đề xuất, kiến nghị như thế nào đối với hai điểm gây bức xúc này?
Ông Huỳnh Vạn Thắng: Theo tài liệu quan trắc trong 37 năm (1976 – 2012), mực nước trung bình nhiều năm tại Trạm thủy văn Ái Nghĩa là HTBNN = 3,37 m; mực nước trung bình mùa khô (15/12 đến 31/8) là HTBNN (mùa khô) = 2,93 m; mực nước trung bình của 3 tháng kiệt nhất (tháng 2, 3, 4) là HTBNN (3 tháng kiệt nhất) = 2,80 m.
Để đảm bảo hài hòa lợi ích của thủy điện và hạ du, đồng thời phù hợp với thực tế quản lý nhiều năm, TP Đà Nẵng đề nghị chọn mực nước khống chế tại Trạm thủy văn Ái Nghĩa là HÁi Nghĩa = 2,80 m trong suốt mùa cạn.
Khi HÁi Nghĩa < 2,80m, thủy điện Đăk Mi4 xả trả lại sông Vu Gia 25 m3/s; khi HÁi Nghĩa = 2,80 đến 2,93m, thủy điện Đăk Mi4 xả trả lại sông Vu Gia 12,5 m3/s; khi HÁi Nghĩa > 2,93m, thủy điện Đăk Mi4 chỉ xả trả lại sông Vu Gia 5 m3/s.
Chọn mực nước khống chế tại Trạm Thủy văn Ái Nghĩa HÁi Nghĩa = 2,80m cũng hoàn toàn phù hợp với tính toán cao trình mực nước thiết kế của Trạm bơm Ái Nghĩa (ở ngay khu vực Trạm thủy văn Ái Nghĩa) là 2,80 m. Với cách vận hành trên, trung bình hàng năm thủy điện Đăk Mi4 cũng chỉ xả trả lại sông Vu Gia 452,8 triệu m3, chỉ bằng 38% so với tổng lượng nước mà Thủy điện Đăk Mi4 đã lấy đi trong mùa cạn của sông Vu Gia.
Theo chúng tôi được biết, trong dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 cũng còn một số điểm mà TP Đà Nẵng cho là chưa hợp lý?
Ông Huỳnh Vạn Thắng: Ngoài hai vấn đề trên, chúng tôi cũng thấy rằng Điều 9 dự thảo Quy trình vận hành mâu thuẫn với Khoản 3, Điều 7 của dự thảo này. Cần phân tích rõ hơn Điều 9 trên cơ sở Khoản 3, Điều 7. Cụ thể, khi mực nước hồ đạt đến mực nước dâng bình thường, các hồ vận hành điều tiết với lưu lượng xả bằng lưu lượng đến hồ. Khi mực nước hồ đến cao trình mực nước lũ thiết kế, thực hiện chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình theo quy trình vận hành của hồ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nên đưa nội dung quy trình vận hành đảm bảo an toàn công trình vào Quy trình này để thống nhất và bãi bỏ quy trình cũ.
Bên cạnh đó, ở Khoản 5, Điều 32 của dự thảo cũng có những điểm chưa hợp lý. Theo chúng tôi, căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Tài nguyên nước và Luật Phòng chống thiên tai thì nên giao quyền cho Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng chỉ đạo xả nước điều tiết nước cho hạ du trong trường hợp hạn hán thiếu nước nghiêm trọng, nhưng đồng thời phải báo cáo Bộ TN-MT và Thủ tướng Chính phủ.
Cần lưu ý rằng vì sao dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 giao trách nhiệm cho UBND tỉnh Quảng Nam phải chỉ đạo vận hành các thủy điện trong thiên tai lũ, nhưng trong thiên tai hạn hán, thiếu nước thì không được phép điều hành. Sản xuất nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nặng thậm chí mất trắng nếu xảy ra thiếu nước từ 3-5 ngày trong mùa khô và nước sinh hoạt thì không thể thiếu trong 1 ngày. Trong khi chờ Bộ TN-MT báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ cần phải có thời gian và các thủ tục hành chính thì hạ du đã bị thiệt hại nghiêm trọng rồi.
Tháng 7/2013, TP Đà Nẵng từng có văn bản gửi Bộ TN-MT góp ý dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa hằng năm đối với các hồ A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2. Tại sao lần này lại phải tiếp tục có thêm công văn 08/PCLB gửi Bộ TN-MT về cùng một vấn đề?
Ông Huỳnh Van Thắng: Công văn 08/PCLB của Ban chỉ huy PCLB – TKCN Đà Nẵng (được sự đồng ý của UBND TP Đà Nẵng) là nhằm thực hiện công văn 47/BTNMT-TNN (ngày 7/1/2014) của Bộ TN-MT về việc góp ý dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2.
Theo yêu cầu của Bộ TN-MT tại công văn 47/BTNMT-TNN thì chỉ góp ý cho phần vận hành liên hồ chứa A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 trong mùa lũ. Tuy nhiên, các ý kiến trước đây của TP Đà Nẵng tại Công văn 951/SNN-CCTL (ngày 26/7/2013) gửi Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ TN-MT) về việc góp ý dự thảo Quy trình vận hành liên hồ chứa hằng năm các hồ A Vương, Đăk Mi4 và Sông Tranh 2 đã không được Bộ TN-MT tiếp thu sửa đổi ở nội dung vận hành mùa cạn.
Vì vậy lần này chúng tôi xin được tiếp tục góp ý cả phần mùa cạn đối với dự thảo Quy trình vận hành này với hy vọng sẽ được Bộ TN-MT quan tâm quan tâm đến nguyện vọng tha thiết và chính đáng của người dân TP Đà Nẵng và vùng phía Bắc tỉnh Quảng Nam, tiến hành điều chỉnh dự thảo đảm bảo hài hòa lợi ích của hạ du với lợi ích phát điện trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Trong trường hợp bị thiệt hại nghiêm trọng do thiếu nước, cạn kiệt nguồn nước, Ban Chỉ huy PCLB-TKCN Đà Nẵng sẽ cùng các cơ quan chức năng căn cứ vào Khoản 3, Khoản 4, Điều 25 (về trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước); mục đ, Khoản 2. Điều 43 (về quyền, nghĩa vụ của tổ chức cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước) và Điều 76 (về giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước) của Luật Tài nguyên nước hiện hành để tham mưu đề xuất UBND TP Đà Nẵng có giải pháp nhằm khắc phục hậu quả, đảm bảo đời sống, sản xuất của nhân dân và sự phát triển kinh tế - xã hội của TP ổn định, bền vững.
Xin cám ơn ông!