Bộ Công an nói về sự khác biệt giữa “game hợp pháp” và “game đánh bạc” trên mạng Internet
Bộ Công an cho biết, “game hợp pháp” là các trò chơi điện tử đã được phê duyệt nội dung, kịch bản và được cung cấp bởi các doanh nghiệp đã được Bộ TT&TT cấp giấy phép cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử G1, G2, G3, G4 (Ảnh minh họa. Nguồn: Internet) |
Mới đây, trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an tại địa chỉ http://bocongan.gov.vn, một công dân đã hỏi: “Vừa qua, Bộ Công an đã triệt phá vụ án “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, đánh bạc, mua bán trái phép hóa đơn và rửa tiền” xảy ra tại tỉnh Phú Thọ và một số tỉnh, thành phố khác. Bộ Công an cho tôi hỏi làm thế nào để phân biệt “game hợp pháp” và “game đánh bạc”? Căn cứ vào đâu để xác định một người tham gia chơi “game đánh bạc”? Và nếu tôi vô tình chơi “game” trên mạng Internet mà không biết đó là trang mạng chuyên sử dụng để hoạt động “game đánh bạc” thì tôi có phạm tội không?”.
Lý giải thắc mắc nêu trên của công dân, Bộ Công an cho biết, “game hợp pháp” là các trò chơi điện tử đã được phê duyệt nội dung, kịch bản và được cung cấp bởi các doanh nghiệp đã được Bộ TT&TT cấp giấy phép cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử G1, G2, G3, G4. Danh sách các doanh nghiệp và trò chơi điện tử được cấp giấy phép đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử Bộ TT&TT tại đường dẫn https://dvc.mic.gov.vn.
Ngoài ra, theo ghi nhận của ICTnews, trên Cổng thông tin điện tử của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử thuộc Bộ TT&TT tại địa chỉ abei.gov.vn, các cá nhân, doanh nghiệp cũng thể tra cứu thông tin về 369 trò chơi điện tử G1 đã được phê duyệt nội dung kịch bản trò chơi điện tử G1 trên mạng và gần 60 doanh nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử G2, G3, G4 trên mạng.
Cũng trong thông tin giải đáp trực tuyến thắc mắc của người dân về khác biệt giữa “game hợp pháp” và “game đánh bạc”, Bộ Công an nêu rõ, đối với hành vi “đánh bạc”, theo Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và 249 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tại Điều 1 xác định: “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.
Tại Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tội đánh bạc được quy định: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hay hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm”.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Bộ luật Hình sự, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: Có tính chất chuyên nghiệp; Tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử phạm tội; Tái phạm nguy hiểm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
“Như vậy “cờ bạc” là hiện tượng xã hội tiêu cực, bị dư luận xã hội lên án, đấu tranh, loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Đối với các hành vi nguy hiểm trong các loại hình cờ bạc, Nhà nước quy định đó là tội phạm cần xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật Hình sự”, Bộ Công an nhấn mạnh.