Lịch sử đã chọn đường đi cho Võ Nguyên Giáp
Năm 1973, cuốn sách được xuất bản tại Paris. Mãi đến năm 2010 trong một lần đến Thư viện Quân đội tìm tư liệu, dịch giả Nguyễn Văn Sự - một người lính của Đại tướng đã vô tình đọc được và ấn tượng bởi nội dung chân thực cách viết lôi cuốn, đặc biệt là những hiểu biết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp của tác giả. Sách vừa được Công ty Cổ phần Sách Thái Hà ấn hành nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.
![]() |
Ngay trong phần mở đầu tác phẩm của mình, tác giả Gérard Lê Quang đã viết: Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những người làm nên lịch sử Việt Nam. Là bạn chiến đấu của Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu, cùng với Người, ông đã thúc đẩy cuộc cách mạng, làm cho tính độc đáo của cuộc cách mạng đó càng thêm sâu sắc...
Võ Nguyên Giáp – Dấu ấn 2 cuộc chiến
Võ Nguyên Giáp đã cống hiến phần lớn cuộc đời của ông cho cuộc chiến đấu, ông đã dẫn dắt hai cuộc chiến tranh kéo dài trên hai mươi năm. Hai cuộc chiến tranh mang dấu ấn con người ông. Gérard Lê Quang giới thiệu trong cuốn sách: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành người chỉ huy quân đội, một cách hầu như ngẫu nhiên, tướng Giáp chưa bao giờ là một chiến binh thật sự… Đó là một trong những vị tướng hiếm hoi, không qua một trường lớp đào tạo chính quy nào đã được đề cử thẳng lên đỉnh cao của hệ thống chỉ huy quân sự. Sự hiểu biết về quân sự của ông không phải được học ở một học viện quân sự nào mà qua kinh nghiệm thực tế trên chiến trường. Võ Nguyên Giáp lẽ ra có thể trở thành thầy thuốc, giáo sư, hay trạng sư. Con đường ông đã chọn không phải con đường dễ nhất. Nhiều người Việt Nam quen biết ông đã khẳng định điều này. Đúng là ông đã không thật sự chọn đường đi cho mình mà Lịch sử đã chọn cho ông.
Sự thật như thế nào? Ở tuổi ba mươi, ông chỉ huy một toán người cầm súng, nhưng chưa phải là một quân đội thật sự, ở tuổi ba mươi nhăm, ông trở thành bộ trưởng trong chính phủ chưa được nước nào trên thế giới công nhận, ở tuổi bốn mươi tư, ông đã giành được một chiến thắng có tính quyết định trong cuộc đọ sức với đội quân viễn chinh Pháp.
Đối với người châu Âu, tướng Giáp, trước hết là người chiến thắng ở Điện Biên Phủ. Ngày mồng 7 tháng 5, những người nông dân mặc áo lính đã cắm lá cờ đỏ sao vàng trên vị trí trung tâm của pháo đài Pháp tại xứ Thái, chấm dứt tám năm chiến tranh và đánh dấu sự kết thúc của một đế quốc. Đối với người Mỹ, tướng Giáp là đối thủ của họ trong cuộc chiến tranh Đông Dương kéo dài trên mười năm..., đó cũng là một bí ẩn với những hình ảnh về ông được nêu ra chỗ này, chỗ kia: người chỉ huy của những người lính da vàng bé nhỏ, chân đi dép cao su kiểu Hồ Chí Minh, đầu đội mũ nan…”
Điện Biên Phủ - Trận chiến bảo vệ xứ Thái
Trong suốt tác phẩm của mình, tác giả đã phác họa chân dung Võ Nguyên Giáp đậm nhất, rõ nét nhất trong phân đoạn “Điện Biên Phủ - Trận chiến bảo vệ xứ Thái”. Trong phân đoạn này tác giả viết: Trận Điện Biên Phủ đánh dấu sự kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã hoàn thành ngày 8 tháng 5 năm 1954 nhưng đối với tướng Giáp - chiến dịch đã khởi động từ một năm rưỡi trước đó, trước các dãy núi ngay ở xứ Thái dân cư thưa thớt. Xứ Thái bắt đầu từ hữu ngạn sông Đà, thủ phủ là Lai Châu ở phía cực bắc trên sông Đà, Điện Biên Phủ ở xa hơn về phía nam 60 km. Điện Biên Phủ cũng ở cách xa miền thượng du và căn cứ Việt Minh. Tuy nhiên đây lại là nơi tướng Giáp đã mạo hiểm đưa vào đây các đại đoàn chủ lực ưu tú của ông kể cả đại đoàn pháo binh 351 mới thành lập với những khẩu trọng pháo bắn nhanh để đưa Pháp vào bẫy. Ông cho rằng trong chiến dịch này, ở vùng Tây-Bắc xa xôi này ông có đủ phương tiện để cầm chân quân Pháp ở những vùng còn lại trong nước.
Tháng 7 năm 1952, tướng Giáp đã có trong tay một đội quân 280.000 người (riêng ở Bắc Bộ có 160.000) để chống lại khoảng 260.000 quân Pháp (trong đó 175.000 là người Pháp). Trong khi khối chủ lực đóng vai trò nòng cốt trong các trận giao chiến thì chiến tranh du kích tiếp tục diễn ra với 18.000 bộ đội địa phương và 65.000 du kích đã có cơ sở khá vững khắp nơi ở miền Bắc kể cả miền đồng bằng sông Hồng.
Bây giờ tướng Giáp đã có thể đưa cuộc chiến tranh sang một tầm vóc mới, mở rộng ra ngoài khu vực chính của Bắc Bộ. Chiến trường mở rộng sang cả nước Lào. Ông nghĩ rằng tình hình này sẽ buộc quân viễn chinh phải kéo dài đội hình đến mức phá vỡ cả tuyến phòng thủ và tiếp đến buộc họ, nếu muốn bảo vệ Lào, phải đặt các căn cứ xa xôi rất dễ bị tấn công...
...Tướng Giáp cần có thời gian để tiến hành những cuộc hành quân khác tiến thẳng, khi đi ngược trở lại để nghi binh, khi quanh co đi đường vòng qua rừng rậm, để đánh lạc sự chú ý của đối phương, làm cho quân Pháp phải sa lầy, phá hủy ưu thế chiến thuật của chúng. Sự đối phó của bộ tham mưu Pháp rất chậm chạp, ngập ngừng thái quá, không bao giờ tận dụng đến cùng khả năng sẵn có. Đó là lời phê phán nặng nề nhất của tướng Giáp khi nhận định về đối sách bị động của quân binh Pháp thời đó...
...Trận Điện Biên Phủ kéo dài 55 ngày đêm, nhưng chiến dịch cùng tên đối với tướng Giáp kéo dài gần 3 tháng. Trong thời gian đó, ông lệnh cho các đơn vị đến chung quanh tập đoàn cứ điểm, xem tất cả những khả năng tiến công và đối phó của địch, nghiên cứu thực địa từng tấc đất. Tháng 12, đích thân ông đến quan sát lòng chảo chỉ cách vài kilômét... Ông làm việc tại sở chỉ huy mặt trận đến 3 tháng, được ẩn kín trong những ngọn đồi bên cạnh và tiến hành không mệt mỏi những cuộc trinh sát chung quanh vị trí Pháp, chứng kiến việc tăng cường phòng thủ của địch và nhìn qua ống nhòm theo dõi họat động của địch trên sân bay. Rõ ràng là người Pháp muốn biến tập đoàn cứ điểm thành một cái bẫy dụ quân đội của tướng Giáp xông vào, rồi gục ngã trước các làn đạn bắn chéo cánh sẻ của pháo binh và dưới các trận bom napalm. Cách duy nhất để tránh không bị tiêu diệt là nấp kín càng lâu càng tốt cho đến khi tiếp cận địch rồi ngoi lên khỏi mặt đất đánh giáp lá cà. Phương tiện duy nhất là có một hỏa lực pháo binh hơn hẳn pháo binh Pháp. Chính là tùy thuộc vào những dữ kiện này mà tướng Giáp đưa người của ông vào cuộc giao chiến.
Ông huy động 80.000 dân công, tuyển từ vùng địch hậu đồng bằng. Lúc đầu họ được giao việc làm được, kéo pháo, đào hầm giấu pháo trên các ngọn đồin bao quanh lòng chảo Điện Biên Phủ. Tướng Giáp còn sử dụng 500 xe vận tải Motova do Liên Xô sản xuất, được đưa từ Trung Quốc sang. Để đưa nhanh chóng hỏa lực vào trận địa, đường xá được mở rộng đến tận quá Tuần Giáo, cách Điện Biên Phủ 50 km. Từ đây ôtô không vào được nữa, một hệ thống đường mòn chằng chịt dẫn đến các trận địa pháo mặt đất cao xạ, các nơi tập kết quân, trận địa xuất phát tiến công của bộ binh. Từ lúc này bắt đầu vai trò của dân công hỏa tuyến cùng lực lượng thanh niên xung phong sát cánh với bộ đội địa phương đông như đàn kiến tha mồi được Việt Minh sử dụng làm những công việc tưởng như không thể làm được: đưa những khẩu pháo 105 ly và 75 ly qua đèo dốc, rừng rậm, trên những con được mới mở, được ngụy trang kín tới trận địa rải quanh lòng chảo dài khoảng 50km, đôi khi qua cả những đoạn dốc cao không thể dùng tời kéo thì vác vai từng bộ phận pháo, từng hòm đạn. Đạn các loại, lương thực đã được đưa dần tới các kho chứa từ nhiều tháng trước nhờ những đoàn xe đạp thồ đẩy bằng tay, có xe chở được 350 kg. Sau này tướng Giáp kể với giọng bông đùa cho nhà báo Merry Bromberger: “Dân công xe đạp thồ của chúng tôi mỗi đêm đi được 25 km, mỗi xe ba tạ rưỡi đạn dược các loại, lựu đạn, lương thực thực phẩm… Tôi đã chiến thắng ở Điện Biên Phủ nhờ các xe đạp Peugeot, Saint Etienne”.