Xét xử "bầu" Kiên: Ngân hàng đi gửi tiền là sai lầm
Trước đó, qua phần xét hỏi và các ý kiến luật sư, bị cáo cho thấy, ACB đã tồn dư một lượng tiền. Để có lãi cao, Hội đồng quản trị ACB đã ủy thác cho các cá nhân mang tiền đi gửi ngân hàng để lấy lãi. Trong đó, 19 nhân viên đã được ủy thác số tiền lên đến 718 tỉ đồng, để đi gửi vào ngân hàng Vietinbank. Huỳnh Thị Huyền Như là Quyền Trưởng phòng Giao dịch Điện Biên Phủ, Ngân hàng Vietinbank đã tận dụng những sơ hở làm giả chữ ký chiếm đoạt 718 tỉ đồng để tiêu xài cá nhân.
Án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đức Kiên và các bị cáo khác về hành vi cố ý làm trái các quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng. Án sơ thẩm đã quy kết số tiền 718 tỉ đồng là hậu quả của hành vi của ban điều hành ACB và Thường trực hội đồng quản trị ACB vì ra nghị quyết và thực hiện ủy thác nhân viên cho Ngân hàng Vietinbank vay qua phòng giao dịch do Huỳnh Thị Huyền Như đứng ra nhận.
Chuỗi hành vi này đươc, các cơ quan tiến hành tố tụng tính từ khi ra nghị quyết đến khi thực hiện quá trình ủy thác.
Bị cáo trình bày quan điểm trước Hội đồng xét xử |
Việc ký vào nghị quyết cho phép ban điều hành ACB thực hiện ủy thác, có ý kiến về việc ban hành nghị quyết về việc ủy thác không sai trong lúc ban hành. VKS cho rằng việc đó là trái với Luật Tổ chức tín dụng 1997. Các luật sư và bị cáo cho rằng căn cứ cho ACB ủy thác gửi tiền là điều 72 luật Tổ chức Tín dụng (TCTD) và điều lệ ACB, nhưng xem xét chỉ có “Tổ chức tín dụng được quyền ủy thác và nhận ủy thác làm đại lý cho các ngân hàng”. Căn cứ ủy thác trong ngân hàng, vấn đề xem xét việc ủy thác gửi tiền có phải hoạt đồng liên quan đến lĩnh vực ngân hàng hay không?
VKS lập luận thêm: “Đối chiếu luật, điều 7, điều 20, Luật TCTD quy định giải thích ngân hàng, cùng hàng loạt các quy định khác đều không có điều luật nào quy định việc gửi tiền là lĩnh vực liên quan đến lĩnh vực gửi tiền”.
VKS cho rằng, bị cáo Kiên có nói là căn cứ vào điều 45, Luật TCTD 1997, gửi tiền là lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng. Điều này cần xem xét như sau: điều 45 là quy định về huy động vốn, nhận gửi tiền.
Như vậy, nhận tiền gửi là hoạt động liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, còn gửi tiền thì hoàn toàn sai lầm.
Trong vụ án này, Vietinbank nhận tiền của nhân viên ACB là hoạt động huy động vốn, là hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, còn việc gửi tiền của ACB không phải là hoạt động liên quan đến Ngân hàng. Việc gửi tiền lòng vòng không khuyến khích hoạt động của ngành ngân hàng, thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, và đưa vào hoạt động của nền kinh tế.
Từ lý do trên, VKS khẳng định chủ trương ban hành sai từ thời điểm ban hành nghị quyết.
Điểm thứ 2, VKS cho rằng, việc ủy thác cho cá nhân đi gửi 718 tỷ đồng vào Vietinbank, bản thân hành vi này cũng trái với Luật TCTD 2010. Điều 90 Luật TCTD cho rằng TCTD chỉ được tiến hành các hoạt động kinh doanh khi được NHNN cho phép. Cũng có nghĩa là trong hoạt động của các TCTD thì không áp dụng quy định được phép làm những điều mà luật pháp không cấm, mà chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
Trong giấy phép kinh doanh ACB cũng không có tài liệu nào cho phép TCTD được ủy thác gửi tiền cho cá nhân đi gửi tiền tổ chức tín dụng khác.
Có ý kiến cho rằng chưa có hướng dẫn nên không phạm luật là không đúng. Điều 106 cũng ghi rõ là ngân hàng chỉ được thực hiện các hoạt động ủy thác… khi được cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Theo tinh thần điều 90, khi NHNN chưa cho phép mà thực hiện thì là trái với pháp luật.
Về hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của các bị cáo với hậu quả, một số luật sư có ý kiến việc cơ quan tố tụng chưa thu thập đầy đủ chứng cứ xác định thiệt hại, tài liệu thu giữ là tài liệu photo. VKS có ý kiến: Căn cứ vào lời khai của ACB, Vietinbank, Huyền Như có đủ căn cứ để xác định ACB có gửi 718 tỷ vào Vietinbank và cho đến nay ACB chưa thu hồi được. Các tài liệu photo có thể coi là tài liệu đồ vật khác, được xem xét trong quá trình xử lý vụ án.
Về ý kiến cho rằng không có hậu quả xảy ra, Vietinbank có trách nhiệm trả lại tiền và bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực. VKS cho rằng hành vi ủy thác gửi tiền là trái với quy định quản lý kinh tế của Nhà nước, số tiền trên đến nay không thu hồi được, ACB cũng không có quyền khởi kiện đòi tiền của Vietinbank. VKS cho rằng việc xác định hậu quả thiệt hại do các bị cáo gây ra đã được xác định rõ.
Ý kiến cho rằng nghị quyết không gây thiệt hại mà làm lợi, VKS cho rằng không chính xác. Việc ủy thác vi phạm quy định về trần lãi suất, và CQĐT cũng tách vụ án để điều tra về việc nhận gửi tiền vượt trần. Ý kiến cho rằng việc ủy thác gửi tiền bắt buộc tiến hành và mang lợi cho xã hội, VKS cho rằng lúc đó ACB có thể tiến hành cách khác.
Về ảnh hưởng chủ trương ủy thác gửi tiền, ông Giá đã cho rằng “Việc ủy thác gửi tiền có thể làm sai lệch các báo cáo liên quan về hoạt động huy động vốn ngân hàng”.
Xung quanh hành vi về việc ủy thác gửi tiền mà một số bị cáo có ý kiến, VKS nêu, bị cáo Kiên cho rằng 2008 rút khỏi HĐQT và chỉ tham gia vào HĐSL, không tham gia vào chủ trương gửi tiền. VKS thấy rằng dù vậy nhiều lời khai khẳng định bị cáo có ảnh hưởng lớn, có tính quyết định tại ACB.
Liên quan đến nghị quyết ngày 22/3/2010, bị cáo Kiên có tham gia cuộc họp, dù không có thẩm quyền ban hành, nhưng nhiều lời khai đã khẳng định vai trò quan trọng của bị cáo trong việc ban hành nghị quyết này, như lời khai của ông Trần Mộng Hùng, bị cáo Kỳ, bị cáo Cang, bị cáo Tuấn, bị cáo Quang.
Ông Giá khai “tại cuộc họp sau khi nghe Hải báo cáo 1 số ý kiến hạ lãi suất huy động, Kiên phản đối và giao cho TGĐ thực hiện ủy thác gửi tại Ngân hàng khác”. Bị cáo Hải tuy khai không nhớ diễn biến cuộc họp nhưng cũng khẳng định “nếu anh Kiên không đồng ý thì ACB không thể triển khai chủ trương này”.
Đối với vấn đề bị cáo Hải nêu, bị cáo cho rằng không phải là người có chức vụ quyền hạn nên không là chủ thể của tội phạm, VKS cho rằng bị cáo Hải được người có thẩm quyền bầu ra, bị cáo có quyền của TGĐ và thành viên thường trực HĐQT được quy định trong quy chế ACB. Không có pháp luật nào quy định là ngân hàng tư nhân là người không có chức vụ quyền hạn.
Đối với trình bày của bị cáo Cang, bị cáo cho rằng 31/12/2010 đã có đơn từ nhiệm và chuyển sang Eximbank. VKS thấy rằng Cang tuy ko tham gia tg trực HĐQT từ tháng 1/2011, nhưng bị cáo còn giữ chức Chủ tịch HĐ Tín dụng, Phó ban điều hành ngân quỹ và tham gia cuộc họp về việc đầu tư cổ phần vào ngày 22/3/2011….
Bên cạnh đó VKS cũng công bố quan điểm phản bác đối với các hành vi dùng tiền ACB để mua cố phiếu ACB thông qua “vòng tròn” phức tạp.