Xét xử “bầu Kiên”: Lý Xuân Hải cố biện hộ bằng bối cảnh ngân hàng
Chiều ngày 9/12, sau phần bào chữa, trình bày quan điểm của các luật sư, các bị cáo được HĐXX cho phép trình bày quan điểm của mình.
Đầu tiên, bị cáo Lý Xuân Hải đứng lên trình bày trước tòa. Bị cáo Lý Xuân Hải cho rằng việc Ngân hàng ACB có nghị quyết về việc ủy thác cho cá nhân gửi tiền trước ngày 1/1/2011 là không vi phạm, còn sau đó việc tiếp tục thực hiện phù hợp với thông lệ và văn bản luật của Việt Nam. Trên thực tế, lúc đó chưa có văn bản hướng dẫn nào. Điều 106 Luật các tổ chức tín dụng có phần ủy thác và đại lý, không hiểu sao việc ủy thác lại phải dừng lại ngay, còn đại lý không thấy NHNN nói gì. Rất mong HĐXX xem xét yếu tố này.
Khái niệm trung gian tiền tệ là khái niệm được dùng cho tất cả các ngân hàng thương mại. Thị trường tiền tệ chuyển từ người thừa đến người thiếu là phải qua trung gian tiền tệ. Còn thị trường chứng khoán là thị trường mà người có tiền đầu tư trực tiếp.
Hành vi gửi tiền: Hành vi gửi tiền là giao dịch dân sự trong đó người gửi tiền giao kết với trung gian tiền tệ và có phát sinh quyền và nghĩa vụ. Nghĩa vụ của người gửi tiền là giao tiền còn người đó có quyền đòi tiền, kèm theo lãi và gốc. Hợp đồng này nếu là tài khoản tiết kiệm thì là thẻ tiết kiệm, nếu là tài khoản thanh toán thì có hợp đồng.
Tại sao Vietinbank phải trả cho ACB chứ không phải chị Huyền Như? Khi đến giao dịch thì làm việc với người đại diện cho Vietinbank, nội dung giao dịch là hợp pháp, việc giao dịch là có thật.
Bị cáo Hải nói đến đây thì HĐXX nhắc nhở bị cáo cần tập trung vào nội dung quy kết của bản án sơ thẩm là ngân hàng không được ủy thác cho nhân viên đi gửi tiền, và tiền đó hiện nay không thu hồi được, yêu cầu bị cáo hãy tập trung bào chữa vào nội dung này.
Bị cáo Lý Xuân Hải tiếp tục: Việc ủy thác cho nhân viên gửi tiền có gây hậu quả hay không? Hiện nay ACB chưa thu được số tiền này, nhưng chưa thu được và bị thất thoát là khác nhau. Nhưng dù có là gì thì không quy trách nhiệm cho ACB, càng không thể quy trách nhiệm cho người ra nghị quyết, vì đó không phải là quan hệ nhân quả của nghị quyết này.
Về vấn đề ngân hàng ACB cho Kiên Long bank và Vietbank vay để mua cổ phiếu của ACB, bị cáo Lý Xuân Hải thừa nhận: “Tôi có dự phiên họp và toàn bộ cái tôi biết chỉ là nội dung trên quyết định của Thường trực hội đồng quản trị. Tôi cũng có tham gia cấp hạn mức cho 2 ngân hàng Kiên Long Bank và Vietbank, và không biết 2 ngân hàng này sử dụng vì mục đích gì”. Bị cáo Hải cho rằng mình chỉ biết chứ không thực hiện. Bị cáo Hải lý giải rằng: “Việc mua cổ phiếu tôi hoàn toàn không biết, vì anh Kiên, anh Kỳ không báo cho tôi, nhưng tôi nghĩ với vị trí quản lý tôi có trách nhiệm, nhưng cố ý làm trái thì không phải vì tôi không biết gì”.
HĐXX hỏi bị cáo Lý Xuân Hải: Ngân hàng ACB có được quyền đi đòi tiền Vietinbank hay không, hay các nhân viên của ACB (nhân viên được ủy thác gửi tiền qua Vietinbank) đó mới được quyền đi đòi?
Bị cáo Hải cho rằng, các nhân viên ACB là khách hàng của Vietinbank nên có quyền đòi, ACB là đơn vị có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Tiếp theo, bị cáo Lý Xuân Hải trình bày: Tòa có hỏi tôi liệu hợp đồng này có làm lũng đoạn thị trường và ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của Đảng và Nhà nước không? Bị cáo cho rằng bối cảnh thị trường ngân hàng lúc đó rất khó khăn, do kênh liên ngân hàng tê liệt, các ngân hàng tăng lãi xuất để huy động vốn. Theo bị cáo Lý Xuân Hải, nghị quyết lúc đó ra đời về bản chất là tiền chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, nhưng lại có "tác dụng dập lửa".
Các bị cáo nghe quan điểm của Viện kiểm sát |
Trước đó, sáng ngày 8/12, đại diện VKSNDTC giữ quyền công tố đã công bố quan điểm đề nghị y án sơ thẩm với các bị cáo. Trong đó, bị cáo Lý Xuân Hải vẫn tiếp tục bị đề nghị mức án 8 năm tù với hành vi Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng.
Đại diện VKSNDTC nhận định: “Các bị cáo Lý Xuân Hải, Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Huỳnh Quang Tuấn phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, quy định tại điều 165 Bộ Luật hình sự như án sơ thẩm đã quy kết với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo đề nghị xem xét tội danh của các bị cáo”.