Thủ tướng: ĐBSCL phải thành thung lũng của sự sáng tạo
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu kết luận Hội nghị. Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Sau hai ngày làm việc với nhiều tham luận của chuyên gia và các cơ quan quản lý, chiều 27/9, Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng biến đổi khí hậu đã khép lại với ý kiến tổng kết của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Thủ tướng khẳng định: “Chính phủ lắng nghe và tiếp thu đầy đủ các vấn đề đã nêu ra, tiếp tục kêu gọi các sáng kiến để chung tay vì mục tiêu xây dựng ĐBSCL. Chính phủ sẽ có Nghị quyết về ĐBSCL trong đó có nêu các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Thủ tướng nêu ra 4 thách thức lớn đối với ĐBSCL, gồm:
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã ảnh hưởng nặng nề nhất trong 100 năm qua.
Khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, trong đó có chuyển nước sông Mekong sang lưu vực sông khác sẽ gây ra nguy cơ lớn với đồng bằng.
Các hoạt động kinh tế cường độ cao của con người đã gây ra nhiều tổn thương và hệ lụy cho đồng bằng, gây ra hiện tượng sụt lún lớn, tốc độ nhanh, sạt lở ngày càng nhiều, môi trường bị suy thoái, ô nhiễm nước do rừng ngập mặt bị tàn phá nặng nề.
“Riêng tại bán đảo Cà Mau đã có hơn 10.000 giếng khoan nước ngầm để nuôi trồng thủy sản thì làm sao không gây sụt lún được? Hàng ngàn km đê bao làm sao không ảnh hưởng đến phù sa?” –Thủ tướng nhận định.
Thủ tướng lo ngại rằng hiện ĐBSCL vẫn là vùng trũng của giáo dục đào tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa và hạ tầng cơ sở chưa tưng ứng với tiềm năng, trong khi nguồn nhân lực chất lượng cao có xu hướng di chuyển khỏi vùng.
“Các thách thức đã nêu trên không còn là dự báo mà đã hiện hữu” – Thủ tướng cho hay, đồng thời nhấn mạnh rằng các giải pháp sắp tới: “Phải giữ được đất, nước và đặc biệt là người thì mới gọi là thành công trong chống chọi với thiên nhiên”.
Biển xâm lấn ngày một mạnh tại các tỉnh ĐBSCL. |
Đề cập đến tương lai vùng đất này, Thủ tướng nói: “ĐBSCL không chỉ là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, mà phải là nền kinh tế nông nghiệp thông minh, có giá trị gia tăng cao ở khu vực và rộng hơn là Châu Á trong tương lai.
Phải xây dựng ĐBSCL từ vùng trũng thành thung lũng của sự sáng tạo của nền nông nghiệp đa chức năng, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp nhằm thích ứng với môi trường nhiễm mặn, khan hiếm nước ngọt, phù sa, thay đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng phù hợp”.
Để hiện thực hóa mục tiêu trên, Thủ tướng nêu ra ba quan điểm phát triển, gồm:
Thứ nhất: Kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng trên cơ sở chủ động thích ứng, chuyển hóa được những thách thức, biến thách thức thành cơ hội, bảo đảm được cuộc sống ổn định và khá giả của người dân cũng như bảo tồn được những giá trị truyền thống văn hóa của vùng.
Thứ hai: Thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa, sang tư duy kinh tế nông nghiệp từ số lượng sang chất lượng, gắn với chuỗi giá trị từ sản xuất nông nghiệp hóa học sang nông nghiệp hữu cơ và công nghệ cao, chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp.
“Lương thực không phải chống đói mà ngày nay lương thực phải là dinh dưỡng và phòng, chữa bệnh” – Thủ tướng nhận định.
Thủ tướng yêu cầu chú trọng đến các giải pháp phi công trình, trong đó có trồng rừng. Trong ảnh là một phần của mũi Cà Mau. |
Cuối cùng, Thủ tướng nhấn mạnh rằng phải tôn trọng quy luật tự nhiên, chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thuận thiên là chính, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, phát triển bền vững theo phương châm sống chung với lũ, với mặn, với khô hạn, thiếu nước phù hợp với điều kiện thực tế.
“Xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng là xu thế tất yếu, phải sống chung và thích nghi, phải biến thách thức thành cơ hội. Một lần nữa chúng ta nêu lại quan điểm phải chủ động sống chung với lũ, với mặn, với thiếu nước như Israel đã làm. Và chúng ta coi nước lợ, nước mặn cũng là một nguồn tài nguyên” – Thủ tướng chỉ đạo.
Với các hoạt động đầu tư, dù cho rằng sẽ tập trung vào những công trình có tính chất “không hối tiếc”, nhưng Thủ tướng vẫn yêu cầu chú trọng chủ yếu đến giải pháp “phi công trình”.
“Hà Lan và nhiều nước khác đều đi theo hướng đó, chứ không phải đắp một con đê dài, những đê bao từng vùng, từng vùng như chúng ta đã vấp phải” – ông chia sẻ.