Vai trò của KH&CN và đổi mới sáng tạo trong phát triển bền vững kinh tế biển

Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp CN hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh.

Phát triển kinh tế biển được coi là sự phát triển trong tương lai của các lĩnh vực kinh tế biển đã được thiết lập và mới nổi. Các hoạt động kinh tế biển đã thiết lập bao gồm các ngành vận tải biển, đóng tàu và thiết bị hàng hải, đánh bắt và chế  biến thủy sản, du lịch biển và ven biển, thăm dò và sản xuất dầu khí ngoài khơi, nạo vét, thiết bị cảng biển và bốc dỡ.

Các ngành và hoạt động kinh tế biển mới nổi được đặc trưng bởi vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ (KH&CN) tiên tiến trong hoạt động của các lĩnh vực này.

Các ngành và hoạt động kinh tế biển bao gồm: Năng lượng gió ngoài khơi, thủy triều và sóng; khai thác dầu khí nước sâu, xa bờ và ở các vị trí khác; khai thác kim loại và khoáng sản đáy biển; nuôi trồng thủy sản; công nghệ sinh học biển; quan trắc, kiểm soát và giám sát biển.

Xa hơn trong tương lai, còn có các lĩnh vực rất non trẻ hay “chưa ra đời”, ví dụ như lĩnh vực thu hồi và lưu giữ carbon và quản lý khu bảo tồn trên biển.

Kinh tế biển sẽ là ngành mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam.

Chủ trương phát triển KH&CN biển và kinh tế biển

Ngay từ thập kỷ 1970-1980, Việt Nam đã chủ trương phát triển KH&CN biển và kinh tế biển. Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói: “Việt Nam có đủ điều kiện và cần phải trở thành một quốc gia biển dựa trên một nền kinh tế biển, một nền KH&CN biển và lực lượng quân sự biển mạnh”.

Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa ra một số quan điểm: “Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế biển hướng mạnh vào xuất khẩu, dựa trên những tiến bộ khoa học, công nghệ làm động lực; vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo nhân lực”.

Quan điểm này được cụ thể hóa bằng các giải pháp: “Đầu tư thích đáng cho KH&CN; tăng cường năng lực điều tra khảo sát, nghiên cứu khí tượng- thủy văn và môi trường, thực trạng tài nguyên và dự báo xu thế biến động trong những thập kỷ tới.

Trong đó, chú trọng đẩy mạnh công tác nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển; mở mang du lịch; bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển.

Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển”.

Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi.

Những nội dung nêu trên tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó nhấn mạnh "Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”. Nghị quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 như:

Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn;

Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;

Khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước;

Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh. 

 

Mục tiêu cụ thể là xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, KH&CN, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước.

Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước.

Cùng với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển; xây dựng cơ quan quản lý tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.

Về phát triển KH&CN biển, Nghị quyết số 09-NQ/TW xác định mục tiêu xây dựng tiềm lực KH&CN biển đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng KH&CN, phục vụ công tác điều tra cơ bản, dự báo thiên tai và khai thác tài nguyên biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực KH&CN cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Luật Biển Việt Nam được Quốc hội thông qua vào ngày 21/6/2012 coi ”Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao KH&CN về khai thác và phát triển kinh tế biển” là 1 trong 6 ngành kinh tế biển được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát trển.

Bên cạnh đó, Quốc hội Việt Nam đã thông qua các Luật liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển như: Luật Tài nguyên môi trường biển,đảo; Luật Dầu khí;Luật Hàng hải;Luật thủy sản...đều có các quy định về phát triển KHCN biển.

Ngoài ra, Chính phủ đã có các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về chiến lược kinh tế biển; các chiến lược KH&CN; các chiến lược ngành kinh tế biển. Các chiến lược này đều có nội dung, chính sách về KH&CN biển.

Những hạn chế tồn tại

Theo TS. Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó Tổng thư ký Quốc hội, Việt Nam đã hình thành hệ thống tổ chức KH&CN và mạng lưới nghiên cứu KH&CN biển. Đảng và Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình KH&CN trọng điểm về kinh tế biển liên tục trong nhiều thập kỷ. Thực tế một số lĩnh vực đã phát triển mạnh, có đóng gióp rõ rệt của KH&CN, tiềm lực KH&CN biển đã bước đầu được định hình.

Tuy nhiên, theo ông Lê Bộ Lĩnh, chúng ta đang có một hệ thống tổ chức KH&CN và đội ngũ các nhà khoa học hùng hậu, nhưng thiếu tính liên kết. Do đó, chưa tạo ra cơ sở dữ liệu cơ bản, có hệ thống về biển và đại dương phục vụ xây dựng chiến lược kinh tế biển; các công trình khoa học nghiên cứu về kinh tế biển bền vững còn ít; ứng dụng KH&CN và đổi mới sáng tạo trong kinh tế biển còn yếu.

TS. Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó Tổng thư ký Quốc hội.

TS. Lê Bộ Lĩnh nhấn mạnh: “Nhận thức về vai trò của KH&CN trong phát triển kinh tế biển nói chung, phát triển bền vững kinh tế biển nói riêng không nhất quán, thiếu chiến lược và chương trình hành động cụ thể.

Để giải quyết những hạn chế nêu trên, TS. Lê Bộ Lĩnh đề xuất xây dựng khung khổ chiến lược phát triển KH&CN phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển. Củng cố hệ thống tổ chức KH&CN và nguồn nhận lực KH&CN biển; Đổi mới cơ chế huy động và sử dụng nguồn lực đầu tư cho KH&CN và đổi mới sánh tạo về biển.

Ông Lĩnh cho rằng việc xây dựng khung khổ chiến lược phát triển KH&CN phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển sẽ đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững kinh tế biển, phát huy lợi thế tự nhiên của Việt Nam về biển và đại dương, khắc phục các lỗ hổng và điểm yếu/nghẽn hiện nay trong KH&CN biển, cũng như đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0.

Mới đây nhất, Nghị quyết 36 NQ/TW năm 2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đã đáp ứng được những mong mỏi về phát triển kinh tế biển mang tính bền vững. Trong đó, Nghị quyết xác định lấy khoa học, công nghệ tiên tiến hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá.

 

Nguyễn Tuân

AIA Việt Nam và Tiki hợp tác xây dựng nền tảng kỹ thuật số độc quyền về bảo hiểm nhân thọ

AIA Việt Nam và Tiki thỏa thuận thiết lập mối quan hệ hợp tác toàn diện độc quyền đầu tiên giữa một doanh nghiệp cung cấp giải pháp bảo hiểm và một nền tảng công nghê hàng đầu Việt Nam.

VinBrain sử dụng “siêu máy tính” cho các giải pháp ứng dụng AI

VinBrain (thuộc tập đoàn Vingroup) là một trong những công ty tiên phong trong việc sử dụng thế hệ siêu máy tính NVIDIA DGX A100 trong việc phát triển một cách hiệu quả và đột phá các sản phẩm AI. 

Lần đầu tiên ra mắt ứng dụng kết nối dịch vụ công chứng trực tuyến tại Việt Nam

Chỉ với một vài thao thác đơn giản, chúng ta đã có thể kết nối với các tổ chức hành nghề công chứng mà không phải mất quá nhiều thời gian như trước kia.

Nghiên cứu ứng dụng một số loại rau, củ, quả trong điều chế thuốc trị bệnh đái tháo đường

Đề tài “Khảo sát hoạt tính ức chế Enzyme α-Glucosidase của một số rau, củ, quả tại An Giang trong hỗ trợ điều trị bệnh Đái tháo đường” được đánh giá có nhiều tiềm năng khai thác để ứng dụng thực tế.

Ứng dụng công nghệ nano UFB để bảo quản cá ngừ đại dương trên tàu câu tay

Sau quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Hải sản đã làm chủ hoàn toàn “Hệ thống ứng dụng công nghệ nano UFB bảo quản cá ngừ đại dương trên tàu cầu tay”. Sản phẩm sẽ được thương mại hóa thời gian tới.

Nhiều công nghệ ứng dụng thành công hữu ích cho các công trình xây dựng

Công nghệ Ô ngăn hình mạng Neoweb… đã được ứng dụng thành công, hiệu quả trong các công trình xây dựng.

Công nghệ xử lý nước thải góp phần giải quyết thực trạng ô nhiễm nguồn nước

Nhằm góp phần giải quyết thực trạng ô nhiễm nguồn nước đang ngày một nghiêm trọng tại Việt Nam, nhiều công nghệ xử lý nước thải tiên tiến hiện đã và đang được áp dụng ở nhiều địa phương từ các đơn vị nhận chuyển giao.

Nhìn lại năm 2020, năm của Make in Vietnam

Năm 2020 là một năm đầy sôi động đối với các nhà cung cấp nền tảng số. Tính đến ngày 25/12, đã có 26 sự kiện với tổng số 38 nền tảng số Make in Vietnam được Bộ Thông tin và Truyền thông lựa chọn để giới thiệu.

KH&CN đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp

Ngành khoa học và công nghệ đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi.

Nhóm sinh viên Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM sáng chế thành công phòng chờ ảo cho bệnh nhân

Nhóm sinh viên Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM đã sáng tạo ứng dụng phòng chờ ảo - QQueue, cung cấp hệ thống xếp hàng trực tuyến, giảm thời gian chờ của bệnh nhân, hạn chế tình trạng tụ tập đông người nơi công cộng.

Đang cập nhật dữ liệu !