Nghiên cứu nuôi cấy vật liệu phục vụ kỹ thuật ghép gân

Từ nhiều năm nay, các nhà khoa học của Trung tâm mô phôi, Trường Đại học Y Hà Nội đã nghiên cứu rất nhiều công nghệ y sinh để phục vụ cho các kỹ thuật ghép thay thế trong đó có vật liệu ghép gân.

 Nghiên cứu nuôi gân

Tại Labo công nghệ mô ghép – thuộc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản và công nghệ mô ghép Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, nơi nghiên cứu quy trình bảo quản các loại mô công nghệ nuôi và bảo quản gân người.

Theo PGS Ngô Duy Thìn – Labo Công nghệ ghép cho biết cho biết nhờ công nghệ này mà đến nay đã có hàng trăm bệnh nhân chấn thương khớp gối do đứt dây chằng đã khỏe mạnh mà không phải lấy gân của chính mình. Nhiều vận động viên thể thao, trong đó có cả vận động viên quốc gia đã trở lại thi đấu sau khi được ghép gân.

Trước đây, nếu không có ghép gân các bệnh nhân bị chấn thương khớp gối thường không thể phục hồi. Trong khi đó, nhu cầu ghép gân rất lớn. Các bác sĩ có thể cắt đoạn gân khác thay thế những vùng gân quan trọng hơn nhưng vẫn không khả thi.

Vì thế, các bác sĩ, nhà nghiên cứu của Bộ môn phôi trường đại học Y Hà Nội đã phối hợp với các bác sĩ Viện chấn thương chỉnh hình Bệnh viện Việt Đức nghiên cứu về ghép gân cho người từ nguồn gân hiến tặng.

{keywords}
Ghép gân đồng loại mang lại nhiều lợi ích giúp người bệnh phục hồi.

PGS Thìn cho biết những ngày đầu, các bác sĩ đã nghiên cứu thử nghiệm ghép cho thỏ và đã thành công nên tiến hành ghép trên người. Quy trình thu nhận, xử lý, bảo quản mô rất chặt chẽ, đặc biệt là khâu sàng lọc người cho. Theo đó, người cho không bị các bệnh HIV, viêm gan, giang mai và các bệnh theo thông tư 2012 của Bộ Y tế. 

Người cho cũng không được quá 60 tuổi. Mô gân cho phải không dập nát, không nhiễm khuẩn, khi cắt ra không để quá 6 giờ nếu để trong phòng lạnh. Sau khi mô gân được lấy, các bác sĩ sẽ tiến hành xử lý, tiệt trùng bằng chiếu tia gamma, cho vào tủ bảo quản ở nhiệt độ -80 độ C. 

Ứng dụng rộng rãi

BSCKII. Đoàn Việt Quân – Phó Viện trưởng Viện Chấn thương chỉnh hình, Trưởng khoa Phẫu thuật Chi dưới – Bệnh viện Việt Đức cho biết bệnh viện Việt Đức là nơi ứng dụng ghép gân từ nghiên cứu của Labo mô ghép.

Bác sĩ Quân cho biết tổn thương đứt dây chằng và tổn thương mất đoạn gân là những tổn thương không hồi phục. Phẫu thuật chuyển gân chi, phẫu thuật tái tạo dây chằng hay phẫu thuật ghép gân tự thân mang lại một số kết quả khả quan.

Tuy nhiên, do vật liệu tự thân là loại vật liệu được lấy ra từ chính cơ thể của bệnh nhân, có những mặt hạn chế do giới hạn về số lượng, không phải lúc nào cũng đủ để ghép gân số lượng lớn, tái tạo hai bó dây chằng chéo trước, tái tạo nhiều dây chằng và nhất là những trường hợp đứt lại dây chằng, bệnh nhân phải mổ lại lần 2, 3.

Bên cạnh đó, việc lấy gân ở vùng này đem ghép cho vùng kia thực chất là việc chấp nhận hy sinh chức năng ít quan trọng ở vùng này để lập lại chức năng quan trọng hơn ở vùng khác… Nhiều tai biến có thể gặp tại chỗ lấy mảnh ghép tự thân như: vỡ xương bánh chè, đứt phần gân bánh chè còn lại, yếu hệ thống duỗi gối, yếu động tác khép đùi, giảm sự vững chắc mặt trong khớp gối, tổn thương các nhánh thần kinh tại vị trí lấy gân.

Theo bác sĩ Quân nguyên liệu gân, xương đồng loại là xương của người chết hiến mô tạng được xử lý, bảo quản bằng nhiều phương pháp khác nhau rồi sau đó sử dụng cho bệnh nhân. Gân, xương đồng loại qua xử lý bảo quản (đông khô, lạnh sâu) rất ít tính kháng nguyên nên hầu như không có phản ứng thải loại.

Ưu điểm: giúp cho bệnh nhân tránh phải chịu thêm một đường mổ nữa, có thể cung cấp một khối lượng xương lớn, thậm chí cả một đoạn xương. Sử dụng gân xương đồng loại trong phẫu thuật tái tạo dây chằng và ghép đoạn gân đã phát triển và có kết quả tốt.

Loại vật liệu này đảm bảo về số lượng đủ để làm lại nhiều dây chằng, nhiều gân cùng lúc, với chiều dài và đường kính phù hợp với từng bệnh nhân, vừa đảm bảo về chất lượng do cấu trúc vi thể không thay đổi so với vật liệu tự thân, tránh được các tai biến tại chỗ lấy gân. Đồng thời, dây chằng hoặc gân sau tái tạo có độ vững chắc và khả năng hình thành hệ thống mạch máu, thụ thể thần kinh như khi sử dụng vật liệu tự thân, không thải bỏ mảnh ghép.

{keywords}
Nơi bảo quản các mô gân ở nhiệt độ âm sâu. 

Trong 8 năm (từ năm 2011 đến năm 2018), Khoa Phẫu thuật Chi dưới – Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã mổ ghép xương đồng loại bảo quản cho 120 bệnh nhân và mổ nội soi tái tạo dây chằng khớp gối sử dụng mảnh ghép gân đồng loại cho 263 bệnh nhân. Rất nhiều bệnh nhân có nhu cầu ghép gân, xương đồng loại. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu nhập từ nước ngoài rất đắt đỏ và không sẵn có.

Trong 120 ca ghép xương bảo quản, có 70 ca khớp giả, 40 ca u xương, 8 ca ghép xương ổ cối trong thay lại khớp háng, 2 ca tạo hình trần ổ cối trong trật khớp háng. Đặc biệt, có 5/40 bệnh nhân khuyết xương đùi lớn do u tế bào khổng lồ được ghép toàn bộ khối lồi cầu. Trong số đó có ca đầu tiên được ghép khối lồi cầu và thay khớp gối chuôi dài cùng một thì. Tất cả đều có kết quả liền xương rất tốt.

 Qua nghiên cứu thực nghiệm 30 mẫu (20 gân bánh chè + 10 gân Achille) bảo quản lạnh sâu và ứng dụng trên lâm sàng điều trị 263 bệnh nhân bị đứt dây chằng bằng phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức thì thấy mảnh ghép xương, gân đồng loại bảo quản là nguồn vật liệu mới tại Việt Nam đáp ứng được yêu cầu phẫu thuật về số lượng cũng như chất lượng để ghép xương và tái tạo các dây chằng như đúng giải phẫu của nó, giúp người bệnh sớm trở về cuộc sống sinh hoạt bình thường.

Bác sĩ Quân cho rằng trong tương lai cần tăng cường nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật bảo quản gân xương đồng loại nhằm cung cấp khối lượng mảnh ghép đủ cho nhu cầu thực tế lâm sàng, phục vụ tốt nhất nhu cầu của người bệnh với chi phí thấp nhất.

 Khánh Chi 

Lần đầu tiên ra mắt ứng dụng kết nối dịch vụ công chứng trực tuyến tại Việt Nam

Chỉ với một vài thao thác đơn giản, chúng ta đã có thể kết nối với các tổ chức hành nghề công chứng mà không phải mất quá nhiều thời gian như trước kia.

Công nghệ xử lý nước thải góp phần giải quyết thực trạng ô nhiễm nguồn nước

Nhằm góp phần giải quyết thực trạng ô nhiễm nguồn nước đang ngày một nghiêm trọng tại Việt Nam, nhiều công nghệ xử lý nước thải tiên tiến hiện đã và đang được áp dụng ở nhiều địa phương từ các đơn vị nhận chuyển giao.

Nghiên cứu sản xuất sản phẩm thực phẩm hỗ trợ cải thiện trí nhớ

Sản phẩm từ đề tài được nghiên cứu sản xuất ở trong nước, công nghệ tiên tiến, phù hợp với trình độ khoa học hiện nay nên khả năng chuyển giao và sản xuất thuận lợi; tạo ra sản phẩm cạnh tranh...

Nhà ở xây chỉ hết 50 triệu đồng, thi công 5 ngày, tính ứng dụng cao

Ngôi nhà với tiêu chí phù hợp cho một hộ gia đình từ 3-4 người với kinh phí xây dựng tối đa chỉ 50 triệu đồng và thời gian thi công là 5 ngày nhưng vẫn đảm bảo các nhu cầu thiết yếu.

3 sáng kiến nổi bật của EVN trong năm 2020

Trong năm 2020 vừa qua ngành điện lực có nhiều sáng kiến ứng dụng KH&CN góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống và chăm sóc khách hàng.

Nhà khoa học Việt sáng chế gieo sạ lúa kết hợp bón phân theo hàng

Nhóm nghiên cứu của Học viện Nông nghiệp Việt Nam do Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hải dẫn đầu đã bắt tay vào nghiên cứu thiết kế, chế tạo máy gieo sạ lúa kết hợp bón phân theo hàng với sự trợ giúp của khí nén.

Chip vi lưu xét nghiệm máu phát hiện sớm ung thư phổi

Chip vi lưu không chỉ hứa hẹn trong phát hiện sớm tế bào ung thư biểu mô phổi ở người mà còn có tiềm năng phát hiện nhiều loại bệnh tế bào khác. 

Giám đốc ngồi xe lăn và sáng kiến đầu kéo xe lăn dành cho người khuyết tật

Không may gặp tai nạn giao thông vào năm 29 tuổi, anh Lê Huy Tích đã bị liệt cả hai chân. Việc phải di chuyển bằng xe lăn khiến anh tìm tòi và nảy ra sáng kiến về chiếc đầu kéo dành cho xe lăn.

“Hô biến” tro xỉ của Nhiệt điện Na Dương thành đường giao thông

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, hai kỹ sư của Sở GTVT tỉnh Lạng Sơn đã nghiên cứu thành công đề tài “Nghiên cứu sử dụng tro xỉ của Nhà máy Nhiệt điện Na Dương làm mặt đường giao thông nông thôn”.

Sinh viên chế tạo công nghệ tạo vi giọt ứng dụng phân phối thuốc

Hệ thống vi lưu cấu trúc chữ Y tích hợp cảm biến có khả năng tạo vi giọt với kích thước giọt có thể điều khiển theo mong muốn.

Đang cập nhật dữ liệu !